Công tác quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam
Quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo chính là quá
trình thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của nước ta trên
các đảo, vùng biển được xác lập phù hợp với Công ước của LHQ về Luật Biển năm
1982, là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng pháp luật của Nhà nước với
các hoạt động KTXH, các hoạt động trên biển, đảo nhằm duy trì và phát triển các
mối quan hệ, các hoạt động đó trong trật tự, theo đúng quy định của Nhà nước. Quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo vừa mang yếu tố đối nội, vừa mang yếu tố
đối ngoại. Công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo bao gồm những lĩnh vực
sau:
1- Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý,
thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Nhận thức rõ tầm quan trọng, vị trí chiến
lược của biển, đảo VN, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn và
nhất quán về biển, đảo. Đặc biệt là Nghị quyết số 09-NQ/TW (khóa X), ngày
9-2-2007, “Về Chiến lược biển VN đến năm 2020”, đây là lần đầu tiên Đảng ta có
một Chiến lược biển toàn diện, có tầm nhìn chiến lược rộng, tính bao quát cao
trên các lĩnh vực KTXH, QPAN, đối ngoại, hợp tác quốc tế, môi trường...
Cùng với đó, Nhà nước ta ban hành hàng loạt văn bản quy phạm
pháp luật nhằm thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng về quản lý và bảo vệ chủ
quyền biển, đảo, như Tuyên bố của Chính phủ về các vùng biển và đường cơ sở năm
1977 và 1982; Luật Dầu khí năm 1993, Bộ Luật Hàng hải năm 1991; Luật Hàng không
dân dụng VN năm 1991; Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng năm 1997; Pháp lệnh lực lượng
cảnh sát biển VN năm 1998; Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật Biển VN năm
2012; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015. Nhà nước ta cũng trở
thành thành viên của hàng loạt điều ước quốc tế liên quan đến biển và đại
dương, trong đó có Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).
2- Tăng cường và củng cố quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển, đảo. Trong bối cảnh tình hình tranh chấp ở Biển Đông ngày càng
diễn biến phức tạp, song với truyền thống bất khuất của dân tộc, ý chí quyết
tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, chúng ta đã bảo vệ vững chắc chủ quyền.
Cụ thể là, bảo vệ tốt danh nghĩa chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa; quản lý
và bảo vệ vững chắc 21 đảo, bãi với 33 điểm đóng quân ở quần đảo Trường Sa, bảo
vệ tốt vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý.
Cùng với đó là việc ta đã giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền
và quyền tài phán, quyền và lợi ích trên các vùng biển VN thông qua việc duy
trì hệ thống và hoạt động của 15 nhà giàn DK trên vùng đặc quyền kinh tế, thềm
lục địa VN.
3- Kiên trì, kiên quyết đấu tranh đối với các vi phạm chủ
quyền biển, đảo của VN. Nhà nước VN trước sau như một khẳng định chủ quyền của
VN đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Lập trường này được thể hiện nhất
quán trong các văn bản pháp luật về biển đã được ban hành, như Nghị quyết của
Quốc hội năm 1994 phê chuẩn Công ước Luật Biển cũng như trong các phát biểu,
tuyên bố chính thức khác của VN.
Đồng thời, ta đấu tranh kiên quyết, phù hợp trên thực địa và
trên mặt trận ngoại giao, dư luận đối với mọi vi phạm của các nước đối với chủ
quyền biển, đảo Việt Nam. Bên cạnh việc kịp thời triển khai các biện pháp đấu
tranh kiên quyết với các bên liên quan trước các vụ, việc phức tạp nảy sinh ở
Biển Đông, ta cũng có nhiều biện pháp chủ động, ngăn ngừa các vi phạm chủ quyền,
quyền và lợi ích hợp pháp của ta trên biển.
Ta đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, quyền và lợi ích hợp
pháp của ta trên biển, cả trên bình diện song phương, khu vực và các diễn đàn
đa phương toàn cầu, trên cả kênh chính thức và học giả dưới nhiều hình thức đa
dạng, linh hoạt. Việc đấu tranh đối với các vi phạm chủ quyền biển, đảo ở khu vực
Biển Đông thời gian qua đã đạt nhiều kết quả tích cực, tranh thủ được sự ủng hộ
của dư luận quốc tế về sự nghiệp chính nghĩa của ta, lên án các hành động vi phạm
chủ quyền của VN.
Các lực lượng thực thi pháp luật trên biển, như cảnh sát biển,
biên phòng, kiểm ngư tích cực, chủ động tiến hành hoạt động tuần tra, kiểm tra,
kiểm soát, phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật VN trên vùng biển
VN, qua đó góp phần tích cực vào việc duy trì an ninh trật tự, an toàn trên biển,
thể hiện rõ vai trò quản lý và bảo vệ vùng biển của VN.
4- Phát triển kinh tế biển, đảo, gắn phát triển kinh tế với
an ninh, quốc phòng. Thực hiện Chiến lược biển, trong thời gian qua, kinh tế biển,
đảo đã có bước phát triển mạnh mẽ.
Thứ nhất, chúng ta đã phát triển được hệ thống 15 khu kinh
tế biển với trên 100 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký gần 39 tỷ USD
và hàng nghìn tỷ đồng, tạo việc làm cho hàng vạn lao động và là động lực để
phát triển KTXH của địa phương, vùng và cả nước.
Thứ hai, kinh tế thủy sản tăng trưởng liên tục ở mức bình
quân 5% - 7%/năm, trong đó giá trị xuất khẩu của năm 2006 tăng 250 lần so với
năm 1981. Xuất khẩu thủy sản năm 2017 đạt 8,3 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2016.
Thứ ba, trong nhiều năm qua, việc khai thác dầu khí ở các
vùng biển Việt Nam đóng góp từ 18% - 26%/năm cho GDP, góp phần tăng trưởng GDP
toàn quốc.
Thứ tư, du lịch biển, đảo luôn thu hút một lượng lớn khách
du lịch trong và ngoài nước (trên 70% tổng lượng khách quốc tế và trên 50% tổng
lượng khách nội địa). Chỉ tính riêng năm 2015, ngành du lịch đóng góp 6,6% GDP
quốc gia, trong đó du lịch biển, đảo chiếm tỷ trọng lớn.
5- Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của biển, đảo
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân
dân về vai trò, tầm quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc được chú trọng và thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù
hợp với thực tiễn, trình độ, nhận thức của đối tượng tuyên truyền. Đồng thời,
cung cấp các thông tin khách quan, có định hướng về những vấn đề đang diễn ra,
nhất là những vấn đề liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông để mọi tầng
lớp nhân dân hiểu đúng, hiểu đủ về bản chất vấn đề; giải đáp một cách kịp thời
các thắc mắc, băn khoăn của người dân, cán bộ về những diễn biến tình hình; qua
đó tạo niềm tin, nâng cao đồng thuận chung trong xã hội đối với chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề chủ quyền biển, đảo, bẻ gãy những
âm mưu, ý đồ muốn lợi dụng vấn đề chủ quyền biển, đảo để gây chia rẽ nội bộ, chống
phá Đảng, Nhà nước ta.
Công tác thông tin, tuyên truyền đã khơi dậy lòng tự hào dân
tộc, ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân trong công cuộc bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển, đảo, làm cho mỗi công dân Việt Nam thấy rõ trách nhiệm, nghĩa vụ
của mình đối với chủ quyền biển, đảo quốc gia, từ đó góp phần phát huy sức mạnh
đoàn kết của toàn dân tộc, chung sức, đồng lòng quyết tâm làm chủ, bảo vệ biển,
đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
6- Củng cố, tăng cường, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi,
hỗ trợ cho công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa hợp
tác và đấu tranh, giữa giải quyết hòa bình các tranh chấp với tìm kiếm các biện
pháp hợp tác xây dựng lòng tin nhằm tạo cơ hội cho việc giải quyết tranh chấp;
giữa tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau và tuân thủ luật pháp quốc tế... là
những trọng tâm của việc tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng biển,
đảo của Tổ quốc. Trong quá trình này, chúng ta đã đạt nhiều thành tích đáng kể,
thể hiện ở những nét cơ bản:
Một là, môi trường hòa bình thuận lợi cho phát triển, độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững;
Hai là, nhiều tranh chấp liên quan đến chủ quyền biển, đảo
được giải quyết, qua đó góp phần thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước
có liên quan. (Chúng ta đã giải quyết dứt điểm vấn đề phân định biển với TQ
trong Vịnh Bắc Bộ; với Thái Lan trong Vịnh Thái Lan; giải quyết vấn đề phân định
thềm lục địa với Inđônêxia; tiến hành khai thác chung dầu khí với Malaixia; hợp
tác nghề cá với TQ; thiết lập đường dây nóng giữa Hải quân VN với Hải quân TQ;
Malaixia, Philíppin, Campuchia... Đồng thời, ta tiến hành tuần tra chung với
Thái Lan, Campuchia và TQ; hợp tác nghiên cứu khoa học biển với Philíppin).
Ba là, tích cực định hình tiếng nói chung về hòa bình, an
ninh, ổn định ở khu vực Biển Đông trong các cơ chế khu vực, đa phương và toàn cầu;
Bốn là, tích cực tham gia xây dựng các luật lệ quốc tế liên
quan đến biển và đại dương ở quy mô khu vực và toàn cầu;
Năm là, duy trì và thúc đẩy nguyên tắc giải quyết hòa bình
các tranh chấp quốc tế dựa trên luật pháp quốc tế;
Sáu là, thúc đẩy quan hệ song phương và đa phương; tích cực,
chủ động tạo dựng các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đan
xen lợi ích góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam.
7- Hoàn thiện thiết chế quản lý biển, đảo. Từng bước xây dựng
và hoàn thiện thiết chế quản lý biển, đảo thông qua việc hình thành một số lực
lượng thực thi pháp luật trên biển đồng thời với việc nâng cao vai trò và trách
nhiệm của lực lượng biên phòng, hải quân. Về tổ chức, từng bước hoàn thiện bộ
máy quản lý nhà nước về biển, đảo cùng với sự phân công trách nhiệm cụ thể về
các lĩnh vực quản lý nhà nước về biển, đảo giữa các bộ: Ngoại giao, Quốc phòng,
Công an, Giao thông vận tải, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn... Kết hợp giữa quản lý nhà nước theo ngành và lãnh thổ về biển, đảo.
8- Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng yêu cầu
quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Công tác đào tạo, hình thành nguồn nhân
lực có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới được chú trọng và quan
tâm. Bên cạnh việc đào tạo chính khóa cho các lực lượng làm nhiệm vụ quản lý và
bảo vệ biển, đảo, nhiều lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước tổng hợp về
biển, đảo, kiến thức pháp luật đã được tổ chức ở các bộ, ngành, địa phương. Việc
hợp tác quốc tế nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực biển, đảo cũng được mở
rộng với nhiều đối tác khác nhau.
Các bài học kinh nghiệm
Trên cơ sở đánh giá các thành tựu cũng như những vấn đề còn
tồn tại trong công tác quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, có thể
rút ra một số bài học kinh nghiệm.
1, chủ quyền biển, đảo là vấn đề thiêng liêng đối với Đảng,
Nhà nước và dân tộc ta. Do đó, bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần phải phát huy sức
mạnh của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, chỉ đạo của Nhà nước,
trong đó có sự phân công nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể của từng ngành, từng cấp.
2, quản lý và bảo vệ chủ quyền phải dựa trên nền tảng bất biến
là chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là thiêng liêng, không thể để bị xâm phạm,
song cũng cần linh hoạt trong biện pháp triển khai theo từng thời điểm, từng
hoàn cảnh với mục tiêu cao nhất là bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
3, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nêu cao
chính nghĩa của ta nhằm tranh thủ tối đa sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế; tạo dựng
sự đan xen về lợi ích mọi mặt để hình thành môi trường thuận lợi cho công cuộc
bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
4, tạo sự đồng thuận và nhất trí cao giữa các cơ quan nhà nước,
giữa các bộ và nhân dân về chủ trương, đường lối quản lý và bảo vệ chủ quyền biển,
đảo để phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
5, tích cực, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi
phạm chủ quyền của Việt Nam thông qua hợp tác chính trị, quốc phòng - an ninh;
răn đe về mặt quân sự; đề cao ý chí bất khuất, kiên cường, anh dũng của dân tộc
trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.
TS. Trịnh Đức Hải,
Tổng lãnh sự Việt Nam tại Ô-xtrây-li-a,
Nguyên Phó Chủ nhiệm UB Biên giới quốc gia, BNG
(Nguồn Hương Sen Việt)
Công tác quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam
Reviewed by Tây Nguyên mến yêu
on
10:01
Rating:
Không có nhận xét nào: