Top Ad unit 728 × 90

Tin mới

recent

Vấn đề “hậu duệ” - nhìn từ góc độ văn hóa chính trị



Ảnh gốc: Getty Images. Kỹ thuật ảnh: Mạnh Quân. Nguồn Soha.vn.


“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”, lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại trong ngày trịnh trọng tuyên bố với thế giới về sự khai sinh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945).

Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền từ thời khắc ấy. Và cũng từ đó, như một quy luật, Đảng ta phải đối mặt với nguy cơ tha hóa quyền lực, trong đó có “phép thử” của mọi chế độ-vấn đề “hậu duệ”...

Hậu duệ với nghĩa gốc là từ trang trọng dành để nói về con cháu, thế hệ sau của một người nào đó. Còn vấn đề “hậu duệ” hay vấn đề “9C”-"con cháu các cụ cả, chiếu cố các cháu” trong công tác cán bộ được hiểu theo nghĩa tiêu cực vốn là sản phẩm tàn dư của một xã hội đã trải qua hàng nghìn năm phong kiến. “Con quan rồi lại làm quan” đương nhiên là một tư duy lạc hậu, bất công, trái ngược hoàn toàn với đặc trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng. Những năm gần đây, nhất là từ khi Đảng ta triển khai Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về xây dựng, chỉnh đốn Đảng thì vấn đề “hậu duệ” càng được quan tâm xử lý.

Thực tiễn lịch sử các chế độ chính trị trên thế giới chỉ ra rằng, chế độ nào giải quyết tốt vấn đề “hậu duệ” thì tồn tại và phát triển, không giải quyết được vấn đề “hậu duệ” thì sẽ dẫn đến bại vong. Lịch sử phong kiến Việt Nam cũng vậy, “chọn thái tử” là vấn đề quyết định đến thịnh-suy của vương triều và nguyên nhân dẫn đến sự lụi tàn của tất cả các triều đại đều đến từ hậu duệ. Am hiểu sâu sắc văn hóa chính trị-văn hóa cầm quyền, chỉ 1,5 tháng sau ngày đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người cảnh báo những người đứng đầu chính quyền địa phương các cấp về nạn: “Kéo bè kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này, chức nọ. Người có tài, có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài”. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần phê phán tư duy “tứ ệ”: “Thứ nhất hậu duệ, thứ nhì đồ đệ, thứ ba tiền tệ, thứ tư trí tuệ”. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc có câu nói nổi tiếng về tuyển chọn cán bộ: “Tìm người tài chứ không tìm người nhà”.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, thế hệ tiền bối của cách mạng Việt Nam đã nêu gương sáng trong giải quyết vấn đề hậu duệ. Gia đình cố Tổng Bí thư Trường Chinh là một ví dụ. Ông nội ông, Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng từng là một vị quan to triều Nguyễn. Cụ để lại cuốn sách “Cổ huấn tử ca” giáo huấn con cháu theo những chuẩn mực đạo đức truyền thống Việt Nam. Cụ khuyên con: “Khuyên con giữ việc học hành/ Trước cho biết nhẽ sau giành quyết khoa/ Tìm bạn tìm kẻ văn gia/ Những người cờ bạc, giăng hoa chớ cùng”. Đồng chí Trường Chinh đã sống một cuộc đời giản dị, liêm chính và dạy con cháu theo những chuẩn mực của nếp nhà. Con trai của đồng chí Trường Chinh khi đi du học ở Liên Xô gửi về cho bố mẹ tấm hình đang mặc quần ống loe (một biểu hiện của ăn chơi, đua đòi hồi đó). Ngay lập tức, đồng chí Trường Chinh yêu cầu cơ quan chức năng triệu hồi con mình về nước, cho nhập ngũ và vào chiến trường chiến đấu như bao người lính khác. Hiện nay, nhân dân rất ngưỡng mộ, đánh giá cao cuộc sống thanh bạch, bình dị, gần dân của gia đình Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Quần chúng nhân dân mong đợi, hy vọng vợ, con các cán bộ cấp cao sẽ nêu gương bằng cách học tập tác phong, lối sống từ tấm gương gia đình Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng.

Càng tự hào về những đảng viên cộng sản chân chính, chúng ta càng đau lòng trước thực trạng vấn đề “hậu duệ” hiện nay. Trong bài phát biểu gây xúc động đặc biệt của đồng chí Nguyễn Phú Trọng tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 6, khóa XI ngày 15-10-2012, đã nhấn mạnh: “Việc một số cán bộ cao cấp (cả đương chức và nguyên chức) có lúc, có việc còn biểu hiện chưa gương mẫu về đạo đức, lối sống của bản thân và gia đình, nói không đi đôi với làm, đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bản thân các đồng chí đó”. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng đã chỉ rõ một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị là: “Tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích”. Nghị quyết Trung ương 7, khóa XII đánh giá: “Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, "cánh hẩu" xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội”. Trên diễn đàn Quốc hội và các buổi tiếp xúc cử tri, “hậu duệ” là từ khóa được nhắc đến với tần suất dày đặc. Trên báo chí, những cụm từ như “cả họ làm quan”, “con ông cháu cha”, “đảng ủy dòng họ”, “thiếu gia”, “thái tử đảng”, “hạt giống đỏ”, “bố ký quyết định bổ nhiệm con”, “chồng quy hoạch vợ”, “quan lộ thần tốc”... xuất hiện khá nhiều, tần suất cao, điểm mặt chỉ tên khá rõ vấn đề “hậu duệ” ở các cơ quan, đơn vị, địa phương hiện nay.

Lịch sử công tác xây dựng Đảng ta cũng chưa có nhiệm kỳ nào siết chặt vấn đề “hậu duệ” như nhiệm kỳ hiện nay. Chỉ riêng năm 2017, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã công bố việc kiểm tra hiện tượng “cả họ làm quan” ở 9 địa phương, bao gồm cả cấp cơ sở lẫn cấp trực thuộc Trung ương là: Tỉnh Yên Bái; tỉnh Hà Giang; xã Hạ Sơn (Quỳ Hợp, Nghệ An); huyện A Lưới (Thừa Thiên-Huế); huyện Buôn Đôn (Đắc Lắc); huyện Phong Điền (TP Cần Thơ); Cục Thuế tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Trung tâm Pháp y (Sở y tế TP Đà Nẵng)... Trong nhiệm kỳ này, Đảng ta đã công khai với báo chí khi xử lý kỷ luật nhiều trường hợp “hậu duệ” như: Ông Nguyễn Xuân Anh, con trai đồng chí Nguyễn Văn Chi, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương; ông Lê Trương Hải Hiếu và ông Lê Tấn Hùng, con trai và em trai đồng chí Lê Thanh Hải, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; ông Nguyễn Bá Cảnh, con trai đồng chí Nguyễn Bá Thanh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Nội chính Trung ương; ông Vũ Quang Hải, con trai đồng chí Vũ Huy Hoàng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng... “Đồng chí này là con đồng chí nào?”-một câu hỏi khôi hài được dư luận đặt ra mỗi khi chúng ta công bố quyết định nhân sự của một cấp ủy đảng nào đó, khiến những người Việt Nam có lương tri không thể không suy nghĩ!

Cách đây mấy năm, có một nữ chính khách phát biểu: “Con lãnh đạo làm lãnh đạo là hồng phúc của dân tộc” đã khiến dư luận dậy sóng. Theo văn hóa chính trị Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân”. Việc con cháu làm “công bộc của nhân dân” để tiếp tục phụng sự lý tưởng cao đẹp của cha anh thì rõ là hồng phúc của dân tộc! Nhưng, tại sao phát biểu của nữ chính khách nọ nhận nhiều phản ứng bức xúc của dư luận? Vì nó đưa ra vào thời điểm nhiều trường hợp “con ông cháu cha” xuất hiện trong công tác cán bộ đang khiến người dân phiền lòng. Những cán bộ được bổ nhiệm cấp sở, cấp vụ khi tuổi đời mới chỉ 30, dù “đúng quy trình” nhưng bản thân cán bộ đó chưa qua rèn luyện, tu dưỡng khiến người dân bất bình. Cá biệt có những “cậu ấm” mới vào Đảng được vài ba năm đã được đề cử và trúng cử vào những cấp ủy quan trọng, tạo tiền đề để nắm giữ những chức vụ cao trong hệ thống chính trị...

Gần đây, nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội Nga chỉ ra rằng, Liên Xô sụp đổ do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân trực tiếp từ nạn “hậu duệ”. Trừ thế hệ đảng viên cộng sản đời đầu thời Lênin hầu hết giữ được đạo đức cộng sản, đảng viên thế hệ F1, F2, F3... dần dần hình thành những nhóm đặc quyền, đặc lợi. Đặc điểm của nhóm này là được học hành bài bản, "bằng cấp đầy mình", thăng tiến “đúng quy trình” nhưng thường “lướt ghế” với tốc độ của tên lửa. Thượng tướng Yuri Churbanov, con rể Tổng bí thư Brezhnev thừa nhận rằng, chỉ sau một câu nói của bố vợ, ông đã được thăng quân hàm đại tá trước niên hạn, và điều mà chính ông không hiểu nổi là chỉ chưa đầy một năm, ông từ đại tá đã trở thành thượng tướng... Đến thời Gorbachev, các nhóm hậu duệ đã hình thành tầng lớp tự xưng là “tinh hoa của chế độ”. Để hợp pháp hóa những đặc quyền, đặc lợi, chính những nhóm hậu duệ này đã chung tay “cải tổ” mà thực ra là cải hoán chế độ từ XHCN sang TBCN. Danh hiệu đảng viên và lý tưởng cộng sản lúc đó chỉ là chiếc mặt nạ của các “hậu duệ”. Ngay từ đầu thập niên 1980, đa số trong 20 triệu đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô đã không xem “tầng lớp tinh hoa” bao gồm khoảng 600.000 người của Đảng là đồng chí. Năm 1991, trong tầng lớp triệu phú ở Moscow, đại bộ phận là “hậu duệ” đang làm việc trong các cơ quan Đảng, chính quyền. Khi Yeltsin tuyên bố nước Nga độc lập, phần lớn các “hậu duệ” trở thành quan chức của chính quyền mới hoặc trở thành thủ lĩnh các đảng chính trị-đối thủ của Đảng Cộng sản Nga. Nhà kinh tế học người Mỹ David Code đánh giá: “Đảng Cộng sản Liên Xô là chính đảng duy nhất làm giàu trong tang lễ của chính mình”.

Nạn “hậu duệ” nguy hiểm tới sự tồn vong của chế độ XHCN vì nó làm phai nhạt và từng bước phá rã niềm tin của quần chúng vào chế độ, thúc đẩy bất công và xung đột xã hội. Muốn khắc phục, trước hết phải nhận rõ nguyên nhân, đặc biệt là những nguyên nhân sâu xa, căn cốt thì mới giải quyết được.


Cách đây gần nửa thiên niên kỷ, Thomas Hobbes (1588-1679), nhà triết học và xã hội học người Anh đã viết tác phẩm Leviathan. Ông ví quyền lực nhà nước như con thủy quái Leviathan trong Kinh Thánh.

Theo cách hiểu này, quyền lực luôn có bản tính tha hóa. Vì lẽ đó, phải kiểm soát quyền lực như “kiểm soát một con thủy quái”. Vấn đề “hậu duệ” cũng là một thuộc tính tha hóa của quyền lực, cần phải hiểu rõ bản tính ấy thì chúng ta mới tìm ra cơ chế kiểm soát...

Tranh luận tha hóa có phải bản tính tự nhiên của quyền lực hay không, cũng như tranh luận con người sinh ra vốn tính thiện hay tính ác sẽ còn kéo dài, nhưng thực tế lịch sử chỉ ra rằng, chưa có nhà nước nào trong lịch sử (kể cả mô hình nhà nước XHCN đã xuất hiện ở Liên Xô, Đông Âu thế kỷ trước) mà quyền lực không bị tha hóa. Nguồn gốc của vấn đề này trước hết đến từ nguyên nhân kinh tế. Học thuyết Mác-Lênin dự báo rằng, nhà nước XHCN sẽ là kiểu “nhà nước nửa nhà nước”, “nhà nước tự tiêu vong”, tức là một nhà nước tốt đẹp không bị tha hóa quyền lực, nhưng nhiều người quên rằng, nhà nước đó chỉ “tự tiêu vong” khi mà con người đã “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, nền sản xuất xã hội đã đủ sức thỏa mãn nhu cầu rất cao của con người. Chừng nào chưa đạt được trình độ sản xuất ấy, việc dùng quyền lực để đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần là “xu hướng tự nhiên” của con người, ngoại trừ những trường hợp, hoàn cảnh đặc biệt.

Ở Việt Nam, hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ có thể xem là hoàn cảnh đặc biệt. Khi mà nền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước bị đe dọa, một thế hệ cán bộ, đảng viên được sinh ra trong “thời thế” đó, lại được Đảng giáo dục, rèn luyện nghiêm túc, đúng đắn nên chúng ta có “những con người XHCN”. Khi chúng ta bước vào thời kỳ hòa bình xây dựng và phát triển đất nước, hoàn cảnh đặc biệt ấy không còn nữa, nhiều cán bộ, đảng viên từng “sáng trong như ngọc” bắt đầu thu vén cho riêng mình, cho gia đình, con cháu là một xu hướng khó tránh khỏi. Người tốt thì cố gắng dung hòa giữa cái chung và cái riêng. Người xấu thì sẽ tìm mọi sơ hở của cơ chế quản lý để tư lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp còn điệp trùng gian khó vẫn dành thời gian viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” để chỉ rõ những dấu hiệu tha hóa quyền lực của cán bộ, đảng viên, như lạm quyền, lộng quyền, trục lợi từ quyền, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, tùy tiện, tiếm quyền, vô trách nhiệm, bất lực, tham quyền cố vị...

Tiến sĩ Cao Văn Thống, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XII, trong sách “Tư duy nhiệm kỳ và bệnh thành tích trong công tác xây dựng Đảng và quản lý nhà nước hiện nay” đã viết: “Không gì giàu nhanh bằng làm quan (có không ít cán bộ, công chức, người dân nghĩ như vậy). Có cương vị, quyền thế rồi thì thu lại mấy hồi; giá cả thì đã có mặt bằng rồi”. Và với tư duy đó, những người có chức, có quyền thường có xu hướng lợi dụng mọi lỗ hổng trong công tác cán bộ của Đảng để bố trí “ghế” cho con cháu mình, đấu thầu "ghế" cho những người quen thân. Những người được bổ nhiệm vào chức vụ lần đầu sẽ tìm mọi cách xây dựng ê kíp của mình để củng cố quyền lực theo thứ tự ưu tiên “tứ ệ”. Họ sẽ can thiệp vào mọi khâu trong công tác cán bộ. Trong nhận xét, đánh giá cán bộ định kỳ thì “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, “nói việc nhỏ, bỏ việc lớn”; nhận xét khi người nhà vi phạm khuyết điểm thì nương nhẹ, lược bớt, bao biện, đổ lỗi nhằm giảm nhẹ hình thức kỷ luật; nhận xét để đề cử, bổ nhiệm người nhà thì phóng đại thành tích, nói giảm, nói tránh khuyết điểm. Trong quy hoạch cán bộ thì du di, hạ thấp tiêu chuẩn, cho nợ điều kiện đối với hậu duệ; lợi dụng chính sách quy hoạch “động và mở” để kiếm cớ, gây sự, đưa người không cùng ê kíp ra khỏi quy hoạch; phù phép, “biến hóa” lý do để bổ sung người thân quen vào quy hoạch; “quy hoạch treo” bằng cách quy hoạch tràn lan, rất nhiều người cho một vị trí để dễ bề thao túng công tác cán bộ...

Hiện nay, Đảng ta đã có quy định về quy trình công tác cán bộ, nhưng khi người đứng đầu đã thoái hóa, biến chất thì “quy trình” đó sẽ được vận hành để chọn trúng vào “hậu duệ”. Đồng chí Nguyễn Sự, nguyên Bí thư Thành ủy Hội An (Quảng Nam), khi biết tin Ủy ban Kiểm tra Trung ương xử lý kỷ luật ông Lê Phước Thanh (nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam) vì đã làm sai quy trình, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong “bổ nhiệm thần tốc” con trai mình là Lê Phước Hoài Bảo làm Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Nam, đã nói: “Hồi đó, bản thân tôi là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, thấy anh Bảo thuộc lớp trẻ, học hành đàng hoàng, có năng lực, có tư duy tốt nên sẵn sàng ủng hộ. Giờ đây, Ủy ban Kiểm tra Trung ương kết luận việc bổ nhiệm anh Bảo sai quy trình, không đúng nguyên tắc thì cá nhân tôi xin nhận một phần trách nhiệm”.

Bên cạnh nguyên nhân kinh tế, vấn đề “hậu duệ” cần phải được nhìn nhận thấu đáo qua lăng kính văn hóa của người Việt. “Một người làm quan, cả họ được nhờ”, “Con hơn cha là nhà có phúc” là những quan niệm truyền thống của người Việt Nam. “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” để được “lĩnh ấn, phong hầu” là “sứ mệnh” mà cả dòng họ trao cho những trang nam tử. Nguyễn Công Trứ, một vị quan thanh liêm, chính trực, thương dân triều Nguyễn quan niệm: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”...

Từ đó để thấy, “làm quan phát tài” trong quan niệm của người Việt gần như là nghĩa vụ, trách nhiệm tất nhiên của người đàn ông. Khi đã làm quan thì sẽ lo lắng, bố trí cho con cháu “chiếm” được chiếc “ghế” cao hơn của mình thì nhà mới có phúc. Đồng thời, khi đã có chút chức sắc trong chốn quan trường, việc dùng chức vụ ấy để phục vụ dòng họ là điều hiển nhiên. Người Việt còn có quan niệm về mối quan hệ biện chứng giữa “Nhà-Làng-Nước”. Mặt tích cực của quan niệm ấy là góp phần hun đúc truyền thống yêu nước, nhắc nhở trách nhiệm công dân “nước mất thì nhà tan”, nhưng mặt trái là hình thành tính chất cục bộ, bè phái, địa phương chủ nghĩa, không xác lập rõ ràng các mối quan hệ của cá nhân với gia đình, quê hương, đất nước dẫn tới những nhận thức và hành động thiếu chuẩn mực khi những mối quan hệ đó có sự xung đột lợi ích... Cán bộ, đảng viên của chúng ta không ở trên trời rơi xuống mà mỗi người đều có gia đình, dòng họ, quê hương với muôn vàn mối quan hệ chằng chéo “dây mơ rễ má”. Vì thế, rất khó để ai đó vượt thoát ra được những quan niệm, tư duy truyền thống. Đó cũng là một căn nguyên để vấn đề “hậu duệ” rất dễ phát tác khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền.

Một hiện tượng văn hóa khác là truyền thống tôn trọng các thế gia vọng tộc-cự tộc-đại gia của người Việt Nam. Là một dân tộc từng phải làm thuộc quốc, thuộc địa cho các thế lực ngoại bang, người Việt coi trọng vấn đề phả hệ, dòng họ. “Con chim có tổ, con người có tông”. Trải qua những cuộc di dân vì sinh kế hoặc do chiến tranh, người cùng một họ luôn có xu hướng kết nối, liên hệ với nhau. Mặt tích cực của xu hướng này trong công tác cán bộ chưa được nghiên cứu, làm rõ; nhưng mặt tiêu cực của nó là tạo thêm môi trường cho vấn đề “hậu duệ” phát triển, khi sợi dây liên kết trong dòng họ càng chặt chẽ thì sự gắn kết xã hội bị ảnh hưởng hoặc thậm chí bị phá rối. Đặc biệt, những dòng họ có “đại gia” làm trụ cột (đại gia là những gia đình có quyền lực hoặc giàu có, hoặc vừa giàu có vừa quyền lực). Những “đại gia” như vậy sẽ chi phối công tác cán bộ cả một cơ quan, đơn vị hay địa phương. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng từng yêu cầu cơ quan chức năng làm rõ khối tài sản lớn và việc giữ cổ phần của gia đình bà Hồ Thị Kim Thoa tại Công ty Điện Quang. Hay như vụ 15 người giữ các chức vụ chủ chốt được xác định là người thân và họ hàng của Tổng giám đốc Tổng công ty Bảo đảm Hàng hải miền Nam...

Trong bản Di chúc bất hủ để lại cho muôn đời con cháu mai sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Trong nhìn nhận mối quan hệ giữa gia đình và xã hội, Người cũng dặn dò rất chí lý, chí tình: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Trong suốt thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta đã rất quan tâm và giải quyết tốt việc chăm sóc, đào tạo, bồi dưỡng con em cán bộ, đảng viên trở thành những người vừa “hồng”, vừa “chuyên” để kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh. Phần lớn thế hệ đảng viên đầu tiên của Đảng đều không có gia tài để lại cho con cháu, chỉ có danh thơm thì còn mãi và đó cũng là thứ tài sản vô giá, bài học kinh nghiệm gợi mở cho chúng ta những giải pháp xử lý đúng vấn đề “hậu duệ”, cũng như con đường để vận hành nền văn hóa chính trị Việt Nam thời kỳ đổi mới.


Khắc phục vấn đề “hậu duệ” trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đòi hỏi cần có hệ thống giải pháp đồng bộ mà trong một bài viết chắc chắn không đề cập ngọn ngành mọi nhẽ được. Bài viết này xin kiến nghị một khâu then chốt và một giải pháp mang tính đột phá...

Sinh thời, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là người rất tích cực theo gương Bác Hồ chống chủ nghĩa cá nhân (CNCN), chống tham nhũng, lãng phí. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã khái quát phương pháp hữu hiệu để chống CNCN là “quét cầu thang”. Đó là một lối ví von sâu sắc, cũng là một triết lý, một giải pháp có tính đột phá. Vấn đề “hậu duệ”, suy cho cùng thuộc phạm trù tham nhũng quyền lực, vì vậy giải pháp đột phá chính là vận hành phương pháp “quét cầu thang”. Chiếc cầu thang nhiều tầng, nhiều nấc, làm thế nào để quét đến đâu sạch luôn đến đó, chỉ có cách duy nhất là quét từ trên xuống.

Với giải pháp này, rõ ràng việc khắc phục vấn đề “hậu duệ” phải bắt nguồn từ các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sau đó đến các đồng chí trong Ban Chấp hành (BCH) Trung ương. Nhiệm kỳ XII của Đảng, lần đầu tiên, BCH Trung ương ban hành Quy định số 08-QĐi/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên BCH Trung ương Đảng. Trong đó, quy định mỗi đồng chí cán bộ cấp cao của Đảng phải nghiêm khắc với bản thân và kiên quyết chống: “Chạy hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền, chạy phiếu bầu, chạy phiếu tín nhiệm. Can thiệp không đúng thẩm quyền, trách nhiệm, trái quy định vào công tác cán bộ; đề bạt, bổ nhiệm, bố trí cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định, nhất là đối với người nhà, người thân”.

Tiếp đó, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Quy định số 205-QĐ/TW về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền, đã đề cập nhiều nội dung liên quan kiểm soát vấn đề “hậu duệ”, như: Không bố trí những người có quan hệ gia đình (vợ, chồng, bố, mẹ của vợ hoặc chồng, con, anh chị em ruột) cùng đảm nhiệm các chức danh có liên quan; nghiêm cấm hành vi để người nhà, người thân (vợ, chồng, bố, mẹ, con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể, anh chị em ruột) lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín của mình để thao túng, can thiệp công tác cán bộ...

Dân gian có câu “nhà dột từ nóc”, "thượng bất chính thì hạ tắc loạn”. Không phải tự nhiên mà BCH Trung ương Đảng lại phải ra quy định bắt buộc cán bộ cấp chiến lược phải nêu gương, trong đó có nêu gương về vấn đề “hậu duệ”. Kiểm soát quyền lực trong 5 triệu đảng viên là khó, nhưng kiểm soát chừng vài trăm con người (là những cán bộ cao cấp) thì sẽ dễ dàng hơn, nhất là khi chúng ta biết phát huy vị trí, vai trò đảng viên và tổ chức đảng, mở mang tai mắt từ nhân dân. Trước đây, vấn nạn “hậu duệ” ở nước ta phát tác rất phức tạp, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Đến đầu nhiệm kỳ XII, khi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương bắt đầu phát đi những “hồi trống lệnh” đấu tranh kiên quyết với nạn “hậu duệ” bằng việc xử lý kỷ luật rất nhiều con em cán bộ cấp cao (con em của một số đồng chí là Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, bộ trưởng, bí thư tỉnh ủy...) thì “phong trào” thu vén cho các “cậu ấm, cô chiêu” mới có dấu hiệu được ngăn chặn, hiện tượng phát triển “thần tốc” mới có dấu hiệu chững lại.

Tuy nhiên, với những biến tướng tinh vi trong công tác cán bộ hiện nay, khi “trên có chính sách, dưới có đối sách”, “trên nóng dưới vẫn lạnh” thì dẫu các quy chế, quy định có chặt chẽ đến đâu cũng vẫn còn những “khoảng trống”, “khe hở” mà những người cơ hội có thể phát hiện để “lách” vào. “Quan tham, ô lại”, “Ông thầy ăn một, bà cốt ăn hai”. Cấp trên nghiêm thì chưa bảo đảm cấp dưới đã sạch, nhưng có điều chắc chắn là nếu cấp trên nghiêm thì cấp dưới sẽ khó làm những điều xằng bậy. “Quét cầu thang” mang ý nghĩa như một giải pháp đột phá trong giải quyết vấn đề “hậu duệ” vì lẽ đó.

Có người cho rằng, nhìn ra thế giới, nhất là các nước phát triển thì chuyện con nhà “trâm anh thế phiệt” nối tiếp thế hệ trước giữ các chức vụ quan trọng trong chính quyền là điều bình thường. Đúng vậy, chuyện “bố tổng thống, con tổng thống” là chuyện bình thường ở nhiều quốc gia. Ở nước ta hiện nay, chống nạn “hậu duệ” nhưng Đảng, Nhà nước ta cũng ban hành nhiều chính sách khuyến khích, ưu tiên con em người có công với cách mạng. Con cháu cán bộ cấp cao nếu là những người có tài, có đức thì đích thị là vốn quý của dân tộc. Họ cần được đối xử công bằng như những người có tài, có đức khác. Mà để có công bằng trong công tác cán bộ, điều kiện tiên quyết là phải thực hiện công khai, dân chủ. Tháng 3-2019, Bộ Tài nguyên và Môi trường có quyết định bổ nhiệm PGS, TS Trần Hồng Thái làm Tổng cục trưởng Tổng cục Khí tượng thủy văn. Mặc dù ông Trần Hồng Thái là em trai đương kim Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà nhưng dư luận đánh giá việc bổ nhiệm ông là xứng đáng. Ông Trần Hồng Thái sinh năm 1974, là tiến sĩ chuyên ngành Khoa học trái đất và Toán học tại Đại học Tổng hợp Heidelberg (Đức), được phong phó giáo sư khi còn khá trẻ, từng kinh qua nhiều vị trí công tác trong ngành khí tượng thủy văn. Nhìn vào “lý lịch” như vậy, ai cũng thấy mừng, gần như không có ai xì xào ông là “hậu duệ”. Điều đó chứng tỏ, quần chúng rất tỏ tường, rạch ròi trong đánh giá cán bộ.

PGS, TS Nguyễn Văn Giang, Phó viện trưởng Viện Xây dựng Đảng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) cho rằng, một khâu then chốt trong kiểm soát quyền lực hiện nay là kiểm soát người đứng đầu cấp ủy. Dù là “con ông cháu cha” muốn có “quan lộ thần tốc” thì vẫn phải “chạy”: “Chạy ai thì phải chạy người có quyền quyết định trong công tác cán bộ. Hiện nay, người có quyền quyết định trong công tác cán bộ của ta, về mặt chung là BCH, nhưng thực chất quyền lực là do ban thường vụ. Nhưng phải nói thật, trong ban thường vụ cũng chưa phải là cuối cùng, chốt lại là phải chạy đồng chí đứng đầu, tức là đồng chí bí thư. Theo tôi, đồng chí bí thư có thể quyết định được 95%. Bởi vì bí thư là người chủ trì. Chủ trì tức là có quyền đề xuất nhân sự. Bí thư lại có quyền quyết định thời điểm. Một ban thường vụ của một tỉnh ủy, huyện ủy biết nhau hết, nhiều người phải nhờ vả bí thư, cho nên nhân sự của bí thư đưa ra là “chúng em” ủng hộ thôi”.

“Cán bộ nào thì phong trào ấy”, muốn có “bàn tay sắt” trước hết phải có “bàn tay sạch”. Bởi vậy, then chốt để giải quyết vấn đề “hậu duệ” ở các cấp hiện nay là chúng ta phải chọn cho được những người đứng đầu cấp ủy xứng đáng. Bên cạnh những giải pháp đổi mới công tác lựa chọn người đứng đầu (như thí điểm thi tuyển bí thư cấp ủy, bố trí bí thư cấp ủy không phải người địa phương...), thì cần đặc biệt chú trọng đến phát huy dân chủ trực tiếp trong tổ chức đảng. Có một đảng viên 50 năm tuổi Đảng tâm sự: “Năm nay tôi 50 năm tuổi Đảng, đã trọn một đời theo Đảng, ước nguyện của tôi là được một lần cầm lá phiếu để bầu đồng chí bí thư tỉnh ủy mà có lẽ sẽ không thực hiện được”. Tâm sự ấy phản ánh một vấn đề, dân chủ trực tiếp trong Đảng còn nhiều hạn chế. Tiêu chuẩn kết nạp đảng viên của Đảng ta rất cao, nhưng cơ chế để đảng viên phát huy quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong xây dựng Đảng còn nhiều vấn đề đáng bàn. Chừng nào dân chủ trực tiếp chưa được chú trọng thì vấn đề lựa chọn người đứng đầu “vừa hồng, vừa chuyên” và kiểm soát quyền lực trong Đảng còn gặp nhiều khó khăn. Công tác chất vấn trong Đảng hiện còn nhiều bất cập. Điều lệ Đảng ghi rõ đảng viên có quyền chất vấn những công việc của Đảng nhưng việc tổ chức chất vấn trong các cấp bộ đảng chưa được quan tâm triển khai thực hiện. Thẳng thắn đánh giá thì thấy, việc chất vấn tại Quốc hội và HĐND các cấp trong thời gian qua có nhiều tiến bộ rõ rệt, góp phần thúc đẩy dân chủ và công bằng trong xã hội. Nhưng việc chất vấn trong các tổ chức đảng chưa được như vậy. Chất vấn là một hoạt động rất quan trọng để bảo đảm dân chủ, xây dựng con người và xây dựng tổ chức, trong đó có khắc phục vấn đề “hậu duệ”-một vấn nạn được đảng viên ở cơ sở xem như một ung nhọt của Đảng hiện nay.

Có những cán bộ rất tốt, không hề muốn “chạy chức, chạy quyền”, nhưng khi họ hội đủ điều kiện, tiêu chuẩn để bổ nhiệm một chức vụ nào đó, tự thấy mình “chẳng hậu duệ, cũng chẳng đồ đệ”, thế là không yên tâm và cũng tìm cách “chạy”. Mà đã “chạy” để ngồi vào “ghế” rồi, sẽ phải “chạy” tiếp để giữ “ghế” và ngoi lên “ghế” cao hơn. Nạn “hậu duệ”, vì thế như một chiếc đầu tàu, kéo cán bộ, đảng viên cả tốt lẫn chưa tốt vào hành trình ‘chạy” liên tục bất tận. Chặn đứng nạn “hậu duệ” cũng có nghĩa là chúng ta đã chặn “chiếc đầu tàu” tiêu cực trong công tác cán bộ của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán những đảng viên sa vào CNCN: “Cái gì cũng chỉ biết có mình và gia đình mình chứ ít khi nghĩ đến cái gia đình lớn là dân tộc, cái mình lớn hơn là phải hòa vào với dân tộc”. Nhưng Người tin rằng: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn/Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Nếu chúng ta đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị để mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao ý thức trách nhiệm trước Đảng-“không muốn biến con cháu thành “hậu duệ”; tích cực củng cố, hoàn thiện thể chế, bịt mọi lỗ hổng để cán bộ, đảng viên “không thể thu vén cho người nhà”; xử lý thật nghiêm đối tượng “9C” khiến con em cán bộ, đảng viên “không dám quan lộ thần tốc”; xây dựng hệ thống chính sách chăm sóc, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau một cách dân chủ, công bằng để thế hệ trẻ “không cần bố mẹ ưu ái” thì vấn đề “hậu duệ” sẽ không còn là trở lực trong sự nghiệp đổi mới đất nước.

Tại hội nghị cán bộ toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) ngày 27-2-2012, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã cảnh báo thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng phá ta từ bên trong, làm cho "cộng sản tự diệt cộng sản", "cộng sản con diệt cộng sản bố". Hiện thực lịch sử ở Liên Xô, Đông Âu trước đây là minh chứng sống động cho thấy, nếu chúng ta chủ quan trước vấn nạn “hậu duệ” thì tương lai đất nước phải đối mặt với hậu họa khôn lường.

“Quét cầu thang”, vì thế, cần lắm những “bàn tay sạch”!

Nguyễn Hồng Hải

Vấn đề “hậu duệ” - nhìn từ góc độ văn hóa chính trị Reviewed by Tây Nguyên mến yêu on 09:21 Rating: 5

Không có nhận xét nào:

Copyright © by .

Liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.