Không thế lực nào có thể chia cắt nghĩa đồng bào - mọi mưu đồ chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhất định thất bại
Đoàn kết dân tộc là quy luật muôn đời để dựng nước và giữ nước,
là nguồn sức mạnh tạo nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là đường lối
chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Một trong những trọng điểm mà các thế lực
thù địch, phản động tập trung mũi nhọn chống phá sự nghiệp đổi mới là chia rẽ,
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi. Cần
phải bóc trần những âm mưu, thủ đoạn này để từng cán bộ, đảng viên và nhân dân
nâng cao cảnh giác và đấu tranh kiên quyết.
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại
thành công”. Câu nói mộc mạc và súc tích ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự tổng
kết và khái quát ở tầm cao của trí tuệ, nêu lên một quy luật và khẳng định truyền
thống văn hóa hàng ngàn năm lịch sử trường tồn của dân tộc Việt Nam. Nhờ có
đoàn kết đồng lòng mà 54 tộc người cùng chung sống trên mảnh đất không rộng lắm,
người không đông lắm, trình độ phát triển về kinh tế còn khó khăn, nhưng đã vượt
qua bao gian lao, thử thách, chống chọi được với thiên tai, địch họa, bảo vệ
giang sơn, bờ cõi, thống nhất non sông, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, và
đang chung sức, chung lòng xây dựng đất nước ta ngày một đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn.
Dân tộc nào cũng có truyền thống đoàn kết để sinh tồn và
phát triển, song truyền thống đoàn kết của dân tộc ta có những nét đặc thù. Đó
là cuộc sống xen kẽ giao hòa của dân cư một đất nước đa tộc người, đa tôn giáo,
luôn phải biết chia sẻ giá trị, tôn trọng lẫn nhau những khác biệt. Đó là những
cuộc vật lộn liên miên để chống chọi với thiên tai vô cùng khắc nghiệt và chiến
đấu oanh liệt chống đủ loại chiến tranh xâm lược hòng thôn tính lãnh thổ và nô
dịch dân tộc ta. Đó còn là quá trình tự ý thức về giá trị văn hóa thuộc về bản
sắc dân tộc Việt Nam, một dân tộc ngay từ khi hình thành đã mang tính cố kết cộng
đồng cao.
Nghiên cứu chiều sâu của đoàn kết dân tộc mới thấy rõ ý
nghĩa trọng đại, có tầm lý luận cao và ý nghĩa thực tiễn mà Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
của Đảng đã tổng kết thành bài học thứ ba trong năm bài học lớn của cách mạng
nước ta và của cả quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, đó là: Không ngừng
củng cố, tăng cường đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc,
đoàn kết quốc tế. Cương lĩnh của Đảng đã chỉ rõ các cấp độ đoàn kết có quan hệ
biện chứng với nhau, kết hợp với nhau một cách hữu cơ, tạo thành một tổng hợp lực
để sản sinh ra sức mạnh vô địch không thế lực nào phá vỡ nổi. Nhờ sức mạnh đó
mà sự nghiệp chính nghĩa ắt giành được thành công từ nhỏ đến lớn, đi tới thắng
lợi cuối cùng, cho dù phải trải qua sóng gió, thử thách, thậm chí vấp phải khó
khăn, thất bại tạm thời. Bài học lịch sử đó bác bỏ một cách đanh thép mọi luận
điệu của các thế lực thù địch hòng xuyên tạc, bôi nhọ đường lối đại đoàn kết
toàn dân tộc; khẳng định chắc chắn rằng, đoàn kết là một truyền thống rất quý
báu và vững chắc, một giá trị văn hóa và tinh thần vô cùng quý báu, là đường lối
chiến lược mang tính lâu dài, là quy luật sinh tồn và phát triển của toàn dân tộc.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại xã Dur Kmăl, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk. Ảnh: TTXVN. |
Sự tổng kết trong Cương lĩnh hoàn toàn xuất phát từ thực tiễn
lịch sử cách mạng nước ta, chứ không phải mang tính chủ quan duy ý chí. Để đi đến
thắng lợi to lớn ngày nay, cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã phải trải qua những
khó khăn, thử thách, nhiều lúc vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo trên sợi
tóc”, những khúc quanh với những ấu trĩ, sai lầm, khuyết điểm. Có những nơi, những
lúc, những người vì lợi ích cá nhân hẹp hòi đã tạo ra những hố ngăn cách không
đáng có trong cộng đồng dân tộc. Bước vào kinh tế thị trường, những hậu quả do
mặt trái của nó mang lại, mà nổi lên là sự phân hóa giàu nghèo, là chủ nghĩa thực
dụng về vật chất, đã gây nên những thách thức phức tạp làm tổn hại khối đại
đoàn kết toàn dân tộc mà việc khắc phục và vượt qua những thách thức này không
phải nhanh chóng, dễ dàng.
Hơn ai hết, dân tộc ta hiểu rõ giá trị của sự đoàn kết và
quyết tâm làm tất cả những gì có thể làm được để củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn
phá hoại hoặc làm xói mòn, làm suy yếu khối đại đoàn kết này, vì lịch sử đã cho
chúng ta bài học quý giá: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”. Ngày nay, một
môi trường quốc nội đoàn kết và ổn định là tiền đề cần thiết thu hút đầu tư nước
ngoài, tạo thế đứng cho đất nước trong công cuộc hội nhập quốc tế, con đường tất
yếu để nước ta tồn tại và phát triển trong xu thế toàn cầu hóa ngày nay. Mọi thế
lực thù địch muốn phá hoại sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc ta luôn luôn nhằm
vào tiêu điểm là phủ nhận, xuyên tạc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của
nhân dân ta, vì đây chính là cội nguồn, là bảo đảm cơ bản nhất cho thắng lợi của
cách mạng nước ta, là một động lực chủ yếu cho sự phát triển của đất nước hôm
nay và mai sau. Hơn bao giờ hết, bất cứ lúc nào, hễ nội bộ chia rẽ thì đất nước
suy vong, kẻ thù nhòm ngó, xã hội rối ren và tụt hậu. Tụt hậu về mọi mặt, trước
hết là về kinh tế, có nghĩa là tự đánh mất những thành quả cách mạng của nhân
dân ta, dẫn đến mất độc lập, tự do, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Vì lẽ đó, đấu
tranh để bảo vệ vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tức là đấu tranh làm
thất bại về căn bản âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch phá hoại công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta, là vấn đề tồn vong của dân tộc, của chế độ. Đó
là lương tâm, trách nhiệm của mỗi người Việt Nam yêu nước, mỗi người cách mạng
chân chính.
Truyền thống đoàn kết của dân tộc ta từ lịch sử được nâng
lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh, kết tinh thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tiễn cách mạng nước ta ngót một thế kỷ qua
đã chứng minh một cách đanh thép sức sống mãnh liệt và sức mạnh vĩ đại của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là Đảng ta đã quán triệt
sâu sắc tư tưởng đó như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách mạng của Đảng
qua mọi thời kỳ, từ khi thành lập Đảng cho đến ngày nay.
Trải qua gần 35 năm đổi mới đất nước, các nghị quyết của Đảng
đã không ngừng đi vào cuộc sống và khẳng định những nội dung đúng đắn của đường
lối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc trên
cơ sở khơi dậy và phát huy sức mạnh dân tộc đến mức cao nhất, đặt lợi ích chung
của dân tộc, của nhân dân lên trên hết, coi đó là điểm xuất phát để xây dựng
các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm
chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu; tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế,
tranh thủ mọi nguồn lực bên ngoài để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 17-11-1993, của Bộ Chính trị
khóa VII, “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất”,
đề ra những quan điểm phản ánh tập trung nhất tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, khẳng
định nội dung cơ bản của đường lối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ đổi mới
là “đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, bao gồm các giai cấp,
các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, người trong nước và người định cư ở nước
ngoài”(1), lấy mục tiêu chung là giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu đưa nước ta sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu,
làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, coi đó là điểm tương đồng,
“đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau, không trái với lợi ích chung của dân
tộc, cùng nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù, hướng về tương lai, xây dựng
tinh thần đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau...”(2). Đây là bước phát triển mới
có ý nghĩa rất quan trọng về đường lối đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bác
bỏ những luận điệu sai trái cho rằng, Đảng và Nhà nước ta thành kiến, hẹp hòi
và phân biệt đối xử với những người trước kia từng làm việc trong chế độ cũ.
Chúng ta đều biết rằng, sau khi miền Nam được giải phóng, nước
nhà thống nhất, nhiều người trong chế độ cũ đã trở lại trong lòng dân tộc. Họ
được sử dụng theo khả năng và sở trường, không ít người đã được tín nhiệm bầu
là đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, công tác trong các cơ
quan nhà nước, thành viên của ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ Trung ương đến
địa phương. Nguyễn Hữu Có, nguyên Trung tướng trong quân đội Sài Gòn, nguyên
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của chính quyền Sài Gòn, sau nhiều
năm phấn đấu hòa nhập với nhân dân đã trở thành Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, chia sẻ: “Từ sau ngày đất nước thật sự độc lập và thống
nhất đã có rất nhiều chuyển biến, không phải chỉ là một mặt mà ở nhiều mặt,
không phải chỉ ở một phía, mà nhiều phía. Tôi ra đường, ra phố bây giờ ai cũng
gọi tôi là anh, là bác. Đó là kết quả của những chuyển biến tích cực của xóm,
phường, của chế độ và của chính tôi... Tôi đã chọn ở lại với quê hương, với dân
tộc và tôi thật sự cảm thấy hạnh phúc...”(3).
Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Phó Tổng thống của chính quyền Sài Gòn
khi về thăm quê hương năm 2004, trong buổi tiếp xúc với lãnh đạo Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bày tỏ: “Tôi cảm nhận thấy tình hình kinh
tế - xã hội phát triển, ổn định, tốt đẹp, đời sống nhân dân được cải thiện.
Nhân dân vui vẻ, bình yên đón Tết cổ truyền của dân tộc trong khối đại đoàn kết
thống nhất vui vẻ. Trước đây, do sự áp đặt của ngoại bang, Tổ quốc ta như một
cơ thể bị chia cắt ra từng khúc, nay quý vị đã làm được sự thống nhất trở lại.
Tôi thấy từ trong đường gân thớ thịt mạch máu lưu thông, sức sống của một cơ thể
thống nhất đang phát triển từng ngày không gì cản trở được. Chúng tôi, những
người ở vào tuổi thất thập cũng nhắc nhở mình phải góp phần nhỏ bé cho đất nước.
Nhưng tương lai huy hoàng của đất nước này thuộc về lớp trẻ hiện nay có sự lãnh
đạo tập trung của Nhà nước Việt Nam và với chính sách đại đoàn kết dân tộc đúng
đắn, chúng ta sẽ phát triển phù hợp với trào lưu chung của thế giới”(4).
Những lời phát biểu trên đây của những người đã từng giữ những
chức vụ rất cao trong bộ máy chính quyền Sài Gòn trước năm 1975 đã góp phần phê
phán mạnh mẽ và bác bỏ luận điệu xuyên tạc đường lối đại đoàn kết của Đảng và
Nhà nước ta. Không ai có thể tuyên truyền, cưỡng ép họ phải nghĩ tốt về chế độ.
Chỉ một cảm nhận nhỏ khi đi ra đường được mọi người gọi là bác, là anh, đã làm
cho họ thấy cuộc sống hạnh phúc, vì đồng bào dang tay đón họ, những người mà nếu
ở nơi khác có thể bị trả thù và bị loại ra khỏi đời sống xã hội. Sức mạnh của
đường lối đại đoàn kết đúng đắn của Đảng và Nhà nước chẳng những tập hợp được
đông đảo nhân dân, cao hơn thế, nó còn khoan dung, cảm hóa được cả những người
tưởng chừng như khó có thể trở về trong lòng dân tộc.
Những năm qua, sự xuyên tạc đường lối đại đoàn kết của Đảng
và Nhà nước còn nhằm vào chia rẽ và phá hoại quan hệ gắn bó máu thịt giữa 54
dân tộc anh em, chia rẽ dân tộc Kinh với các dân tộc thiểu số, giữa các dân tộc
thiểu số với nhau, phủ nhận chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Tuy thực tế
còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng những thay đổi lớn lao trong đời sống của
đồng bào dân tộc thiểu số trên khắp các vùng, miền của đất nước đã chứng minh
tính đúng đắn của các chính sách thể hiện sự “bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau
cùng phát triển” đối với các dân tộc thiểu số. Quan điểm đó của Đảng và Nhà nước
ta là nguyên tắc cơ bản của các chủ trương, chính sách đoàn kết các dân tộc thiểu
số, xuất phát từ bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, từ
tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ truyền thống đoàn kết của
dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu
số miền Nam ngày 19-4-1946, đã viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia
Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu
Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng
nhau, no đói giúp nhau... Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta...
Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất
cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta”(5). Tư tưởng
đó là linh hồn của các chính sách dân tộc của Nhà nước ta. Các chính sách phát
triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế,... ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã
từng bước thể hiện tinh thần đó và đã mang lại sự thay đổi rõ rệt.
Ya Đuk, người dân tộc Cơ Ho, tỉnh Lâm Đồng, nguyên là thủ
lĩnh của lực lượng FULRO trước đây, sau nhiều năm sống trong rừng sâu chống lại
chính quyền nhưng do nhận thức rõ chính sách đúng đắn của Nhà nước ta, đã quay
về với nhân dân, tích cực tham gia xây dựng quê hương, tham gia Mặt trận Tổ quốc,
rồi trưởng thành, là Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Lâm Đồng, đại biểu
Quốc hội. Nhân dịp nghiên cứu, học tập các nghị quyết của Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành khóa IX(6), Ya Đuk viết: “Xin cảm ơn Đảng Cộng sản Việt Nam, cảm
ơn Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đem lại cho bà con dân tộc
thiểu số quyền được làm một công dân của một đất nước độc lập, dân chủ, có cuộc
sống ngày một ấm no, hạnh phúc và tiến bộ. Những thay đổi to lớn đó là ước mơ của
đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên từ bao đời nay”; “Đến nay, vẫn còn một
số ít bà con dân tộc thiểu số Tây Nguyên bị kẻ xấu lợi dụng, kích động, chia rẽ,
xúi giục, mua chuộc, đã tụ tập đông người có hành động gây rối. Đây chính là
hành động mang màu sắc chính trị xấu xa, gây mất an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước”(7).
Những chia sẻ đó là tiếng nói của người trong cuộc, của những
nhân chứng sống về chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước
ta, bác bỏ đanh thép mọi sự vu cáo xấu xa về chính sách dân tộc đúng đắn được đồng
bào dân tộc thiểu số hoan nghênh và tích cực ủng hộ bằng hành động cụ thể, thiết
thực.
Trong hoạt động chống phá đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta, các thế lực thù địch còn ráo riết chống phá chính sách
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, chia rẽ khối đoàn kết giữa người theo tôn giáo và
người không theo tôn giáo, giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, nhằm làm suy yếu
khối đại đoàn kết toàn dân tộc của nhân dân ta. Lợi dụng tính phức tạp của vấn
đề tôn giáo và thổi phồng một số sai lầm, khuyết điểm trong nhận thức và việc
làm của một số cán bộ, các thế lực thù địch không ngừng vu cáo Đảng và Nhà nước
ta kỳ thị người theo đạo, bóp nghẹt tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vi phạm nhân
quyền... Thực tế tự do tôn giáo ở nước ta đã hoàn toàn bác bỏ những luận điệu
sai trái đó. Chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo là chính sách nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta.
Ngay từ khi mới ra đời nước Việt Nam mới, trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tuyên bố long trọng chính sách của Chính phủ là tự do tín ngưỡng, lương giáo
đoàn kết. Chính sách đó đi vào cuộc sống đã tập hợp đồng bào có đạo trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng hành cùng dân tộc, sống tốt đời đẹp đạo, đóng
góp to lớn vào thắng lợi chung của công cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và anh
dũng của nhân dân ta.
Trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, chính sách tôn
giáo đã không ngừng hoàn thiện, ngày càng phù hợp với thực tế khách quan. Tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân
tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng bào theo các tôn
giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đạo đức tôn giáo có những
điểm phù hợp với yêu cầu xây dựng xã hội mới. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực
hiện nhất quán chính sách đoàn kết tôn giáo, đoàn kết giữa người theo tôn giáo
và người không theo tôn giáo, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của
truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, với
nhân dân, đồng thời nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Trong xã hội ta, mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại
gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn
giáo được Nhà nước thừa nhận hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ,
được hoạt động tôn giáo, được mở cơ sở đào tạo những người chuyên hoạt động tôn
giáo, xuất bản các ấn phẩm về tôn giáo, được xây dựng, sửa chữa, giữ gìn cơ sở
thờ tự theo quy định của pháp luật. Những công trình thờ tự cũ được tôn tạo
khang trang, những công trình lớn mang tầm cỡ khu vực được đầu tư xây mới, nhiều
hội nghị, hội thảo quốc tế về tôn giáo đã được tổ chức thành công tại Việt Nam.
Hiến pháp và pháp luật bảo hộ các tôn giáo, các tôn giáo hoạt
động theo Hiến pháp và pháp luật là nhằm giữ gìn an ninh chính trị và trật tự,
an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho hoạt động tôn giáo diễn ra lành mạnh.
Cần khẳng định rằng, không một quốc gia nào trên thế giới không có yêu cầu về
giữ vững môi trường ổn định để bảo đảm cuộc sống yên lành của nhân dân, trong
đó có những người theo tôn giáo. Ngay từ thời trung cổ, các nhà nước vùng Trung
Cận Đông và châu Âu cũng đã ra những đạo luật buộc những người theo tôn giáo phải
chấp hành nghiêm chỉnh. Do vậy, nghiêm trị những kẻ gây rối, dù họ là người
theo tôn giáo, tuy là một việc không muốn có, cũng là yêu cầu bắt buộc của việc
quản lý đất nước. Không thể coi việc xử lý những cá nhân tín đồ có những hành động
vi phạm pháp luật, xâm phạm trật tự xã hội, cuộc sống yên lành của nhân dân, là
“đàn áp tôn giáo”, “vi phạm nhân quyền”. Thử hỏi, nếu cứ để cho những phần tử xấu,
mượn cớ đòi tự do tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành những hành động quá khích,
gây rối làm tổn hại đến cuộc sống của cộng đồng dân cư, trong đó có cả những
người theo đạo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thì sẽ dẫn đến hậu quả
như thế nào? Khi đó, chẳng những lợi ích dân tộc bị đe dọa, mà lợi ích thiết
thân của những người theo đạo - một bộ phận gắn bó của dân tộc, cũng sẽ không
được bảo đảm.
Mùa thu năm 1843, trong tác phẩm Về vấn đề Do Thái, C. Mác
đã viết: “Ngay trong một nước mà giải phóng chính trị đã hoàn thành, tôn giáo
không những vẫn tồn tại mà còn biểu hiện sức sống và sức mạnh, thì điều đó chứng
tỏ rằng tồn tại của tôn giáo không mâu thuẫn với tính chất hoàn thiện của Nhà
nước”(8). V.I. Lê-nin cũng từng phê phán sự phân biệt đối xử giữa những người
có đạo và không có đạo. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đối với những người theo tôn
giáo, đức tin tôn giáo và lòng yêu nước không mâu thuẫn nhau. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã nêu gương sáng trong việc đoàn kết đồng bào theo đạo với tất cả tấm
lòng chân thành và tình cảm thiết tha.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo ra những điều kiện cơ bản bảo
đảm cho sự thành công của chính sách tôn giáo. Xét về bản chất, chủ nghĩa xã hội
nhằm xây dựng một xã hội, trong đó không còn chế độ bóc lột, đàn áp, bất công;
mọi người sống tự do, bình đẳng, nhân ái, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Điều đó
trùng hợp với những ý tưởng tốt đẹp của những nhà sáng lập các tôn giáo. Không
nghi ngờ gì nữa, những luận điệu sai trái đặt chủ nghĩa xã hội đối lập với tôn
giáo, vu khống Nhà nước ta đàn áp tôn giáo là hoàn toàn xa lạ với quan điểm,
chính sách về tôn giáo ở nước ta.
Trong các cuộc làm việc, trao đổi với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam các cấp, nhiều vị chức sắc tôn giáo đã bày tỏ sự trân trọng, tin tưởng,
đồng thuận với chính sách tôn giáo của Việt Nam. Chẳng hạn như, mục sư đạo Tin
Lành Vũ Hùng Cường bày tỏ: Nhờ có chính sách tôn giáo đúng đắn của Nhà nước,
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, mọi người được tự do tín ngưỡng, tự do
không tín ngưỡng và bình đẳng trước pháp luật. Tôi thấy chính sách ấy vừa mang
tính dân tộc, vừa mang tính quốc tế của mỗi một xã hội tươi đẹp văn minh. Nguyễn
Cao Kỳ cũng phát biểu: “Tôi về kỳ này được yên ổn tham quan, vui chơi, không gặp
một trường hợp trắc trở nào. Mọi người đều được yên ổn làm ăn, sinh sống, kể cả
những người có đạo mà tôi được gặp ở các chùa, nhà thờ cũng được yên vui hành đạo”(9).
Linh mục Phê-rô Nguyễn Công Danh, Phó Chủ tịch Ủy ban đoàn kết
Công giáo Việt Nam sinh thời luôn khẳng định: Các tôn giáo tại Việt Nam nói
chung - nói riêng là Công giáo - đều dành cho chủ nghĩa xã hội những tình cảm
trân trọng, tin cậy và sẵn sàng cộng tác với Nhà nước trong những chương trình
xã hội, ích quốc, lợi dân theo đúng phương châm mà Giáo hội Công giáo đề ra: “Sống
phúc âm giữa lòng dân tộc”, để phục vụ hạnh phúc cho đồng bào.
Các thế lực thù địch không thể chia rẽ được khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, trong đó có đồng bào theo đạo. Đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau cũng như tôn chỉ, mục đích hành đạo của từng tôn giáo, như “Đạo
pháp - dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của Phật giáo, “Sống phúc âm giữa lòng dân
tộc” của Công giáo, “Sống phúc âm phụng sự Thiên Chúa, phụng sự Tổ quốc và dân
tộc” của đạo Tin Lành, “Nước vinh, đạo sáng” của đạo Cao Đài, “Chấn hưng nền đạo
gắn bó với dân tộc, phù hợp với chính sách và pháp luật của Nhà nước góp phần
tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” của Phật giáo Hòa hảo,... là xu hướng chủ
lưu hành đạo của truyền thống tôn giáo yêu nước trong cộng đồng các tôn giáo của
nước ta.
Trong cuộc đấu tranh chống lại những luận điệu chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, còn phải phê phán những luận điệu sai trái xuyên tạc
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với kiều bào đang định cư, sinh
sống, làm việc ở nước ngoài. Đảng và Nhà nước ta luôn coi đồng bào định cư ở nước
ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt
Nam, luôn nhất quán chủ trương chăm lo cung cấp thông tin về tình hình đất nước,
bảo hộ quyền lợi chính đáng của đồng bào, nâng cao lòng yêu nước và trách nhiệm
công dân, ý thức cộng đồng, tinh thần tự tôn và tự hào dân tộc, giữ gìn bản sắc
văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nhà nước ta đã không ngừng
đổi mới chính sách, tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn để những người con xa
xứ về thăm quê hương và đóng góp thiết thực vào công cuộc xây dựng đất nước. Nhờ
chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc đúng đắn mà kiều bào ta ngày càng xóa bỏ mặc
cảm, gắn bó với quê hương. Đại bộ phận kiều bào đều hướng về Tổ quốc, nhiều người
đã về thăm và tham gia đầu tư xây dựng đất nước. Số đồng bào về thăm quê hương
ngày càng tăng, kể cả những người đã giữ những chức vụ cao trong bộ máy của
chính quyền Sài Gòn trước năm 1975. Thực tế đó bác bỏ luận điệu cho rằng, Nhà
nước ta phân biệt đối xử với kiều bào.
Trong những thành tựu của đất nước gần 35 năm đổi mới có sự
đóng góp không nhỏ của kiều bào, thông qua hoạt động sôi động của kiều hối với
hàng chục tỷ USD hằng năm, các dự án đầu tư vào nhiều lĩnh vực sản xuất, dịch vụ,
giáo dục, y tế, xã hội, văn hóa, khoa học - công nghệ... của các nhà doanh nghiệp,
trí thức kiều bào với nhiều tài năng trên nhiều lĩnh vực. Tổ quốc và quê hương
với truyền thống lấy đại nghĩa dân tộc làm trọng luôn dang rộng vòng tay đón
chào những người con xa quê trở về. Tuy còn bộ phận nhỏ cố chấp, có biểu hiện
chống lại xu thế hòa giải, hòa hợp dân tộc nhưng với đường lối đại đoàn kết dân
tộc đúng đắn, có thể tin tưởng rằng, trong tương lai không xa những rạn nứt và
ngăn cách đó sẽ được khỏa lấp./.
PGS, TS. Trần Hậu
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Nguồn Tạp chí Cộng sản.
------------------------------------------------
(1), (2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007,
t. 53, tr. 74 - 75
(3) Tạp chí Mặt trận, số 2 (tháng 11-2001), tr. 19
(4) Hội đồng Lý luận Trung ương: Lẽ phải của chúng ta, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2004, tr. 147
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4,
tr. 249
(6) Nghị quyết số 23-NQ/TW về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết số
24-NQ/TW về công tác dân tộc; Nghị quyết số 25-NQ/TW vềcông tác tôn giáo
(7) Hội đồng Lý luận Trung ương: Lẽ phải của chúng ta, Sđd, tr. 149
(8) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.
1, tr. 524
(9) Hội đồng Lý luận Trung ương: Lẽ phải của chúng ta, Sđd, tr. 154
Không thế lực nào có thể chia cắt nghĩa đồng bào - mọi mưu đồ chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhất định thất bại
Reviewed by Tây Nguyên mến yêu
on
08:49
Rating:
Không có nhận xét nào: