CHỨNG LÝ KHÔNG THỂ CHỐI CÃI VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN CỦA VIỆT NAM
Hệ thống bản đồ cổ thể hiện chủ quyền xuyên suốt của VIỆT NAM đối
với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông ít nhất từ thế kỷ 15.
Trung Quốc đưa quân cưỡng chiếm toàn bộ Hoàng Sa năm 1974 và một phần
Trường Sa năm 1988. Từ đó đến nay, nước này liên tục ngang ngược tiến
hành hàng loạt biện pháp nhằm củng cố hiện diện dân sự lẫn quân sự phi
pháp tại các quần đảo của Việt Nam, nhất là trong những năm gần đây, dựa
trên yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý, bất chấp sự phản đối quyết liệt
từ Việt Nam lẫn cộng đồng quốc tế. Gần đây nhất, Trung Quốc còn đưa nhóm
tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa VIỆT NAM ở khu vực phía nam Biển Đông. Từ dùng vũ lực chiếm
đóng, tuyên bố chủ quyền trái phép cho đến bồi đắp, quân sự hóa, tập
trận phô trương sức mạnh, Trung Quốc đang ngang nhiên triển khai ý đồ
chiếm trọn phần lớn Biển Đông, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của VIỆT
NAM và bất chấp các chứng lý lịch sử. Theo các tài liệu của Tạp chí
Phương Đông thuộc Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông (trực thuộc
Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam), đã có hàng trăm cuộc
đàm phán đa phương, song phương với Trung Quốc về chủ quyền biển đảo và
các chứng cứ về chủ quyền biển đảo của các nước đều đã được các quốc gia
công bố. Việt Nam trong nhiều năm nay liên tục đưa ra các bằng chứng
không thể chối cãi về biển đảo của mình trong các cuộc thảo luận song
phương với Trung Quốc và công bố quốc tế. Mới đây, tạp chí Phương Đông
đã nghiên cứu và tập hợp các nguồn tài liệu thu thập từ trong và ngoài
nước nhằm có cách nhìn hệ thống hơn đối với các bằng chứng về chủ quyền
biển đảo của VIỆT NAM. Các bản đồ và thông tin được thể hiện trong bài
viết Bản đồ và thư tịch chứng minh Việt Nam có chủ quyền trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của tác giả Thế Anh.
Liên tục khẳng định chủ quyền
Một trong những bản đồ từ thời xa xưa thể hiện chủ quyền Việt Nam ở
Biển Đông là tấm Bản đồ Đại Việt quốc trong tập Hồng Đức Bản đồ, được vẽ
vào thế kỷ 15 dưới thời vua Lê Thánh Tông. Bản đồ này thể hiện đầy đủ
13 đơn vị hành chính khi đó, gọi là 13 thừa tuyên, đồng thời có mô tả
quần đảo Hoàng Sa. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu thì Hồng Đức Bản
đồ cho thấy người Việt đã khám phá và khai thác tại khu vực quần đảo
Hoàng Sa từ thời Lý, Trần. GS-TS Trương Minh Đức cũng xác định tấm Bản
đồ Đại Việt quốc trong tập Hồng Đức Bản đồ được vẽ từ thế kỷ thứ 15
(1490) có miêu tả quần đảo Hoàng Sa. “Điều này chứng tỏ từ thế kỷ 15 nhà
nước Đại Việt đã khai thác Hoàng Sa và triều Lê đã thể hiện Hoàng Sa
trong cương giới của mình”, Tạp chí Phương Đông dẫn lời ông nêu rõ.
Hồng Đức Bản đồ năm 1490 có quần đảo Hoàng Sa. |
Cũng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, người Việt đã khai thác và
làm chủ Biển Đông từ thời Lý, Trần, còn các chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa
và Bắc Hải để hành động tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là tiếp nối
truyền thống và tái khẳng định chủ quyền trên Biển Đông. Các chuyên gia
cho rằng Hồng Đức Bản đồ là bộ Atlas đầu tiên của Việt Nam thể hiện sự
quản lý chặt chẽ lãnh thổ và lãnh hải ở Biển Đông.
“Từ thế kỷ 15
nhà nước Đại Việt đã khai thác Hoàng Sa và triều Lê đã thể hiện Hoàng Sa
trong cương giới của mình”- GS-TS Trương Minh Đức
Đến thời vua
Lê Hy Tông (1676 - 1705), ông Đỗ Bá, hiệu Công Đạo, soạn tấm bản đồ xứ
Quảng Nam, vẽ theo kỹ thuật truyền thống với phía tây ở trên và hướng
bắc ở tay phải. Bản đồ này nằm trong Toàn tập An Nam lộ và có ghi “Bãi
Cát Vàng” bằng chữ Nôm, được mô tả nằm ngoài khơi phía đông phủ Tư
Nghĩa, thuộc xứ Quảng Nam.
Năm 1686, chúa Trịnh Căn lệnh cho ông
Đỗ Bá vẽ một bản đồ tổng hợp trên cơ sở của tất cả các bản đồ nước ta từ
thế kỷ 15, có tu chính và cập nhật. Bản đồ mới này gồm luôn cả Toàn tập
An Nam lộ mà ông đã vẽ trước đó và đặt tên chung là Toàn tập Thiên Nam
tứ chí lộ đồ thư. Trong toàn tập này có bản đồ H.Bình Sơn, Quảng Ngãi; ở
phía đông H.Bình Sơn có vẽ quần đảo Cát Vàng và được mô tả như sau:
“Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng
20 dặm đứng đúng giữa biển, từ cửa biển Đại Chiêm đến cửa Sa Vĩnh. Mỗi
lần có gió tây nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở
đấy. Gió đông bắc thì thương thuyền đi ở phía ngoài cũng trôi dạt vào
đấy đều bị chết đói hết cả, hàng hóa vứt bỏ nơi này. Họ Nguyễn mỗi năm
vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hóa, được
phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn. Từ cửa Đại Chiêm đến đấy mất
một ngày rưỡi. Từ cửa Sa Kỳ thì chỉ mất một ngày”.
Một số người
dạt vào đây khi trở về họ mô tả lại quần đảo Cát Vàng này gần giống như
chú dẫn của ông Đỗ Bá viết ở trên. Chẳng hạn, năm 1701, đoàn giáo sĩ
Thừa sai sang Trung Quốc kể lại trong các bức thư gửi về châu Âu về việc
con tàu Amphitrite của họ mắc kẹt ở quần đảo này. “Paracel là một quần
đảo thuộc đế quốc An Nam. Đó là những bãi đá rất đáng sợ, rộng lớn hơn
100 hải lý. Một cơn gió lớn có thể làm đắm tàu bất cứ lúc nào. Quần đảo
Paracel nằm gần bờ biển nước CoChinChine (An Nam)”, bức thư viết. Theo
các chuyên gia, Paracel được mô tả chính là Bãi Cát Vàng trong Toàn tập
Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư và các nhà truyền giáo biết rõ nó thuộc đế
quốc An Nam.
Vào thế kỷ 18, Đoan Quận công Bùi Thế Đạt biên soạn
cuốn bản đồ Giáp Ngọ niên bình Nam đồ. Cũng như các bản đồ khác như
Thiên Hạ bản đồ, An Nam Bình thắng đồ phụ Nam Bắc xứ đồ, bản đồ đều vẽ
theo kiểu truyền thống với phương Đông ở phía dưới. Trong các bản đồ
trên, ở phía dưới đều có vẽ và ghi tên quần đảo Hoàng Sa, gọi là Cát
Vàng hoặc Cồn Vàng, Cát Vàng xứ. Một số bản đồ khác được vẽ từ đầu thế
kỷ 19 như Thiên tai nhan đàm Nam Việt bản đồ, An Nam dư địa chí... cũng
đều vẽ một thực thể ở ngoài khơi phía đông Quảng Nam có tên là Bãi Cát
Vàng, Hoàng Sa Chử, Bãi Cát Vàng nhỏ...
Vào cuối thời Tự Đức
(1848 - 1883), 2 nhà giáo dục là Phạm Vọng và Ngô Thế Vinh soạn và cho
khắc in cuốn sách Khải đồng thuyết ước vào năm 1881 để dạy học. Trong
sách có bản đồ Bản Quốc địa đồ thể hiện bãi cát gọi là Hoàng Sa Chử ở
ngoài khơi biển Quảng Nam. Một bản đồ khác cũng tên là Bản Quốc địa đồ
trong tập niên khảo địa lý Nam Việt địa dư trích lục vẽ đảo tên Hoàng Sa
Chử ở phía đông Quảng Nam. Ngoài ra, các bản đồ cổ của Việt Nam khác
được vẽ ra từ thế kỷ 15 cho đến thế kỷ 19 đều ghi rõ thực thể địa lý ở
trong cương vực quản lý của Việt Nam với tên gọi Cát Vàng, Bãi Cát Vàng,
Vạn Lý Hoàng Sa Châu và Trường Sa Châu. Đó là chính là 2 quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa.
Đại Nam thống nhất toàn đồ của tác giả Phan Huy Chú (1834). |
Sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long vào
năm 1816 cho thị sát Hoàng Sa để tái khẳng định chủ quyền mà Việt Nam
vốn có từ lâu trên quần đảo này. Đến thời vua Minh Mạng, sách sử nhà
Nguyễn ghi rằng hằng năm Bộ Công phải cho người ra khảo sát đo đạc và
ghi lên Đại Nam nhất thống toàn đồ đệ trình để nhà vua ngự lãm. Việc vẽ
bản đồ như vậy do nhà nước phong kiến phái khiển nên Đại Nam nhất thống
toàn đồ là bản đồ chính thức của nhà nước, biểu hiện việc hành xử chủ
quyền ở Biển Đông. Trên bản đồ, 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được vẽ
tách biệt. Đến thời hiện đại, Sách trắng của Việt Nam công bố tháng
3.1975 dẫn chứng sách Hoàng Việt Địa dư chí của Phan Huy Chú ấn hành năm
Minh Mạng thứ 16 (1834) có vẽ Đại Nam nhất thống toàn đồ có ghi rõ hình
thể và vị trí hai quần đảo Hoàng Sa và Vạn Lý (tức Trường Sa) trong
lãnh hải Việt Nam.
Phương Tây công nhận
Năm 1650, giáo sĩ
Alexandre de Rhodes, một người rất am hiểu Việt Nam truyền giáo cả ở
Đàng Ngoài và Đàng Trong và là một trong những người sáng tạo bộ chữ
Quốc ngữ, xuất bản tại Roma (Ý) cuốn sách Renu Annem, trong đó có bản đồ
Vương quốc An Nam. Tạp chí Phương Đông dẫn lời GS Nguyễn Đình Đầu nhận
xét bản đồ này, còn được gọi là bản đồ Đắc Lộ 1650, cơ bản dựa vào Hồng
Đức Bản đồ nhưng được cập nhật nhiều chi tiết hơn và rất có giá trị để
chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Trong đó, giáo sĩ de Rhodes dùng chữ Quốc ngữ để ghi các địa danh
trên bản đồ và vẽ quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa gần vĩ tuyến 16 là rất
chính xác.
An Nam đại quốc họa đồ do Giám mục Jean-Louis Taberd xuất bản năm 1838. |
Vào thời vua Minh Mạng, giám mục người Pháp Jean-Louis
Taberd (1794 -1840) thuộc Hội Thừa sai Paris xuất bản một cuốn tự điển
Latin - An Nam tại Ấn Độ, trong đó có tấm bản đồ An Nam đại quốc họa đồ.
Bản đồ thể hiện Hoàng Sa và Trường Sa ở phía trên vĩ tuyến 16 và chú
thích Hoàng Sa là “Paracel hay Cát Vàng”. Một linh mục Việt Nam từng
cộng tác với ông Taberd đã mang tự điển và bản đồ về nước. An Nam đại
quốc họa đồ được vẽ một cách khoa học và chính xác nên năm 1862 được tái
bản tại Paris để cung cấp thông tin cho quan chức Pháp tại Đông Dương.
Cựu viên chức ngoại giao Mỹ Harold E.Meinhei, một chuyên gia về châu Á,
đánh giá rất cao bản đồ này về mặt chứng cứ hậu thuẫn cho Việt Nam đấu
tranh với Trung Quốc về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Mặt khác, vào thế kỷ 16, các nước phương Tây đua nhau thám hiểm các
vùng biển xa để tìm kiếm hương liệu, thị trường và chiếm thuộc địa,
trong đó có Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Anh. Từ thế kỷ thứ 16,
người Bồ Đào Nha đã khám phá quần đảo nằm ngoài khơi phía đông của Đàng
Trong và đặt tên những đảo này là “Parcel” (nghĩa là đá ngầm) rồi sau
thành “Pracel”. Bản đồ của nhà thám hiểm và bản đồ học Diogo Ribeiro vẽ
trong nửa đầu thế kỷ 16 ghi rõ “Pracel” là của Việt Nam. Do nhu cầu đi
lại rất nhiều từ thế kỷ 15 -17, người Bồ Đào Nha và Hà Lan vẽ hàng ngàn
bản đồ về vùng biển Đông Nam Á, tất cả đều ghi Pracel là của Việt Nam.
Bản đồ Việt Nam do người phương Tây vẽ năm 1749. Hoàng Sa và Trường Sa mang tên chung là Paracel thuộc Đàng Trong. |
Tương tự, nhiều bản đồ khác gọi Hoàng Sa bằng tên tiếng Hà Lan là
“Paracels” hoặc gọi chung Hoàng Sa - Trường Sa bằng tên “Paracel” (không
có chữ “s” - NV) và các nhà hàng hải, địa lý luôn đề cập
Paracels/Paracel thuộc hải phận Vương quốc Đàng Trong. Trong số này có
Bản đồ Đông Dương (Carte de La Penisula Indochinoise) do nhà địa lý Hà
Lan Frere Van Langren vẽ và được Công ty Đông Ấn Hà Lan phát hành năm
1595. Bên cạnh đó, còn nhiều bản đồ khác được ấn hành trong khoảng 1630 -
1650 như Bản đồ Merian (1650) vẽ 2 quần đảo của VIỆT NAM riêng biệt:
Hoàng Sa ngoài khơi Đà Nẵng, còn Trường Sa ngoài khơi Bà Rịa-Vũng Tàu
ngày nay.
Đến cuối thế kỷ 19, nhiều nhà địa lý Pháp, Anh, Đức,
Bỉ, Mỹ soạn thảo và ấn hành bản đồ vùng Đông Nam Á. Tất cả đều ghi quần
đảo Paracels (Hoàng Sa) và Trường Sa của Việt Nam. Đặc biệt thời kỳ này,
các nhà hàng hải, nhà nghiên cứu địa lý đã phân biệt rõ ràng Hoàng Sa
và Trường Sa. Cụ thể, bản đồ Partie de la Cochinchine của Philippe
Vandermaelen xuất bản tại Brussels vào năm 1827 vẽ Hoàng Sa với tọa độ
khá chính xác (16 - 17 độ vĩ bắc, 109 - 111 độ kinh đông). Nhà địa lý
người Bỉ này cũng ghi khá rõ các điểm quan trọng trên bờ biển Vương quốc
Đàng Trong và khẳng định Hoàng Sa thuộc Việt Nam.
BẰNG CHỨNG KHÁCH QUAN
Theo Tạp chí Phương Đông, bản đồ của các nhà hàng hải phương Tây nhằm
phục vụ nhu cầu đi lại buôn bán và tìm kiếm thuộc địa nên tính khách
quan rất cao. “Giai đoạn cuối thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ thứ 19 là thời
gian chủ nghĩa thực dân đang cực thịnh và khoa học kỹ thuật của phương
Tây, kể cả khoa học về hàng hải và địa lý, kỹ thuật về bản đồ đều có
bước tiến khá cao. Chính trong thời gian này phương Tây đã tạo ra các
sản phẩm mà ngày nay chúng ta có thể thu nạp để làm vững chắc thêm lập
luận của chúng ta về chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, cụ thể là hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, tạp chí này phân tích.
Đáng chú ý
nhất trong số này là bộ Atlas thế giới Brussels 1827 với 4 tấm bản đồ
thể hiện chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bên cạnh đó là Bản đồ chính xác của Công ty Đông Ấn xuất bản tại Anh năm
1805, Bản đồ Đông Dương (1808, Anh), Bản đồ Địa lý, Niên biểu Lịch sử
và Gia phả Lavoisme (1820, Mỹ) hay bản đồ về Đông Dương được Tạp chí
Scottish Geographical Magazine xuất bản năm 1886.
CHỨNG LÝ KHÔNG THỂ CHỐI CÃI VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN CỦA VIỆT NAM
Reviewed by Tây Nguyên mến yêu
on
08:00
Rating:
Không có nhận xét nào: