Đoàn kết, quyết tâm xây dựng Gia Lai phát triển bền vững
Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai Hồ Văn Niên cho biết, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động số 63-CTr/TU thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị, với các nhiệm vụ, giải pháp có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm tính khả thi, phân công rõ nhiệm vụ cho từng cơ quan, đơn vị, địa phương, tạo sự thống nhất, quyết tâm của cả hệ thống chính trị và nhân dân đoàn kết, đồng lòng, cùng chung khát vọng xây dựng Gia Lai trở thành vùng động lực khu vực Tây Nguyên.
Năm 2022, Bộ Chính trị ban hành
Nghị quyết số 23-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc
phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đem lại thời
cơ và động lực để các tỉnh Tây Nguyên phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời kỳ
chiến lược mới. Phóng viên Báo Nhân Dân đã có cuộc trao đổi với đồng chí Hồ Văn
Niên, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh
Gia Lai về kết quả đạt được cũng như khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong quá
trình thực hiện Nghị quyết số 23 trên địa bàn tỉnh trong hơn một năm qua.
Phóng viên: Năm 2022, Bộ
Chính trị lần đầu tiên ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh 6 vùng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Xin đồng chí
cho biết về ý nghĩa, tầm quan trọng của Nghị quyết này với địa phương?
Đồng chí Hồ Văn Niên: Vùng
Tây Nguyên luôn được Đảng và Nhà nước ta xác định là địa bàn chiến lược đặc
biệt quan trọng về kinh tế-xã hội, môi trường sinh thái, quốc phòng, an ninh và
đối ngoại của đất nước. Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đó,
ngày 18/1/2002, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về
phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ
2001-2010.
Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết
và Kết luận của Bộ Chính trị (khóa IX, XI), các tỉnh Tây Nguyên đã đạt được những
kết quả to lớn, rất quan trọng; đặc biệt là Gia Lai chúng tôi đã nhận thức ngày
càng sáng rõ hơn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng để khai thác tốt hơn các tiềm
năng, lợi thế của địa phương.
Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị
quyết số 23-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc
phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã thể
hiện trách nhiệm của toàn Đảng và cả nước đối với đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên - vùng đất cách mạng, anh hùng, có nhiều đóng góp trong công cuộc kháng
chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Nghị quyết sẽ giúp các tỉnh Tây
Nguyên khắc phục tồn tại, hạn chế để tiếp tục có những bứt phá và tăng tốc; đem
lại thời cơ và động lực để các tỉnh Tây Nguyên nói chung, tỉnh Gia Lai nói
riêng phát triển mạnh mẽ hơn trong thời kỳ chiến lược mới, giúp Gia Lai cũng
như các tỉnh vùng Tây Nguyên đề ra quan điểm, mục tiêu, định hướng chính, mang
tính đột phá và tầm nhìn dài hạn để phát triển nhanh, bền vững, tiệm cận với
các tỉnh phát triển trong khu vực và cả nước.
Phóng viên: Sau hơn một năm
Nghị quyết được ban hành, địa phương đã có những hành động cụ thể như thế nào để
triển khai thực hiện Nghị quyết, thưa đồng chí?
Đồng chí Hồ Văn Niên: Thực
hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị, Đảng bộ tỉnh xem đây là kim chỉ
nam cho định hướng phát triển của tỉnh trong thời gian đến nên đã nghiêm túc
triển khai công tác nghiên cứu, quán triệt nội dung Nghị quyết số 23-NQ/TW; Nghị
quyết số 152/NQ-CP, ngày 15/11/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị và
các văn bản có liên quan để tạo sự thống nhất trong nhận thức ở tất cả các cấp,
các ngành về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng Tây Nguyên nói chung và
Gia Lai nói riêng.
Ngày 13/7/2023, Ban Thường vụ Tỉnh
ủy đã ban hành Chương trình hành động số 63-CTr/TU thực hiện Nghị quyết số
23-NQ/TW của Bộ Chính trị. Các nhiệm vụ, giải pháp trong Chương trình hành động
được xây dựng có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả. Phân
công rõ nhiệm vụ cho từng cơ quan, đơn vị, địa phương để tổ chức triển khai với
lộ trình, thời gian thực hiện cụ thể, phù hợp. Qua đó, tạo sự thống nhất, quyết
tâm của cả hệ thống chính trị và nhân dân đoàn kết, đồng lòng, cùng chung khát
vọng xây dựng Gia Lai trở thành vùng động lực khu vực Tây Nguyên.
Phóng viên: Xin đồng chí
chia sẻ về những khó khăn, vướng mắc của địa phương trong quá trình thực hiện
Nghị quyết?
Đồng chí Hồ Văn Niên: Việc
thực hiện Nghị quyết trên địa bàn tỉnh có những khó khăn, vướng mắc nhất định.
Gia Lai là tỉnh có diện tích tự nhiên lớn thứ hai cả nước, địa bàn rộng; khoảng
cách từ tỉnh xuống huyện, xã rất xa nên đòi hỏi việc đầu tư là rất lớn.
Các hạ tầng mang tính chiến lược,
kết nối chưa có (như: đường cao tốc, đường sắt…); hạ tầng chưa tạo ra các điểm
nhấn có tính chiến lược để thu hút đầu tư và thúc đẩy các ngành kinh tế chủ lực
phát triển.
Các nguồn lực đầu tư cho kết cấu
hạ tầng quá ít và rất hạn chế, phụ thuộc nhiều vào triển khai các công trình lớn
của Trung ương trên địa bàn. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân ở một
số địa phương vùng sâu, vùng xa, nhất là vùng căn cứ cách mạng còn khó khăn.
Các lĩnh vực được xem là hướng đột
phá, như: nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghiệp chế biến, năng lượng
tái tạo, dịch vụ du lịch… vẫn còn thiếu những quyết sách, cơ chế thật mạnh mẽ
mang tính đặc thù để thúc đẩy phát triển.
Bên cạnh đó, khả năng huy động
và thu hút nguồn vốn ODA, FDI và các nguồn lực lớn còn hạn chế, thiếu nguồn vốn
đầu tư lớn, có chất lượng cao.
Phóng viên: Nghị quyết yêu
cầu thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả nguồn
lực, nhất là nhân lực đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, coi đây là một trong
những khâu đột phá cho sự phát triển nhanh và bền vững của vùng. Tỉnh Gia Lai
đã triển khai thực hiện nhiệm vụ này như thế nào trong thời gian qua, thưa đồng
chí?
Đồng chí Hồ Văn Niên: Để
phát huy hiệu quả Nghị quyết của Bộ Chính trị nhằm đưa Gia Lai phát triển nhanh
và bền vững, tỉnh đã tập trung nghiên cứu các giải pháp để nâng cao chất lượng,
sử dụng có hiệu quả nguồn lực, phát huy được lợi thế tiềm năng của tỉnh.
Bên cạnh những đột phá về cơ chế
chính sách, về hạ tầng..., tỉnh cũng xác định cần có đột phá về nhân lực và xem
đây là khâu đột phá quan trọng vì suy cho cùng nguyên nhân của mọi nguyên nhân
vẫn là yếu tố con người. Chính vì vậy, ngày 28/6/2021, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU về tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ tỉnh Gia Lai đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ;
trong đó xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững,
chú trọng cơ cấu hợp lý, phát hiện, đào tạo bồi dưỡng cán bộ trẻ, nữ, dân tộc
thiểu số ở các cấp.
Bên cạnh những đột phá về cơ chế chính sách, về hạ tầng..., tỉnh cũng xác định cần có đột phá về nhân lực và xem đây là khâu đột phá quan trọng vì suy cho cùng nguyên nhân của mọi nguyên nhân vẫn là yếu tố con người.
Cùng với đó, tỉnh đã chỉ đạo sơ kết, tổng kết, bổ sung và đưa ra những nghị quyết
để phù hợp sự phát triển của từng thời kỳ tạo ra các đột phá để phát triển,
như: Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 20/1/2022 về phát triển kết cấu hạ tầng
đồng bộ, nhất là hạ tầng các vùng động lực của tỉnh Gia Lai đến 2030; Nghị quyết
số 06-NQ/TU, ngày 20/1/2022 về phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững,
tăng cường sinh kế, nâng cao tỉ lệ che phủ rừng thích ứng với biến đổi khí hậu
tỉnh Gia Lai giai đoạn 2021-2030; Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 20/1/2022 về
đẩy mạnh thu hút các nguồn lực đầu tư cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp
chế biến, công nghiệp năng lượng tái tạo và du lịch tỉnh Gia Lai đến 2030.
Gia Lai hiện nay có dân số trên
1,5 triệu người, gồm 43 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm
46,23% dân số (chủ yếu là người Jrai và Bahnar). Đảng bộ tỉnh luôn quan tâm
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững
mạnh toàn diện, coi đây là nhân tố hàng đầu có tính quyết định; phấn đấu để các
thôn, làng vùng đồng bào dân tộc thiểu số đều có đảng viên và chi bộ.
Tỉnh tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, bảo đảm chất lượng, số lượng, cơ cấu hợp lý,
có sự chuyển giao, kế thừa chặt chẽ giữa các thế hệ, nhất là đối với cán bộ nữ,
cán bộ dân tộc thiểu số.
Phóng viên: Nghị quyết đặt
ra nhiệm vụ, giải pháp, trong đó có bảo vệ rừng gắn với bảo đảm an ninh nguồn
nước; nâng cao hiệu quả phát triển cây công nghiệp; đẩy mạnh phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm sản, năng lượng tái tạo; phát triển bền vững công
nghiệp khai thác bôxit, chế biến alumin, sản xuất nhôm. Tỉnh Gia Lai đã và đang
triển khai những biện pháp nào trong quản lý sử dụng rừng và phát huy hiệu quả
kinh tế rừng?
Đồng chí Hồ Văn Niên: Gia
Lai hiện nay có diện tích hơn 1.551.000ha, trong đó đất quy hoạch cho lâm nghiệp
723.156,38ha, chiếm 46,62% tổng diện tích. Chính vì vậy Đảng bộ tỉnh xác định
việc quản lý, bảo vệ và phát triển lâm nghiệp thực sự trở thành một ngành kinh
tế quan trọng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, liên kết theo chuỗi từ phát triển
rừng, bảo vệ rừng, sử dụng rừng đến chế biến và thương mại lâm sản; quản lý, bảo
vệ, phát triển và sử dụng bền vững diện tích rừng tiến đến làm dịch vụ bán tín
chỉ carbon, cho thuê môi trường rừng để trồng và phát triển dược liệu nhằm phát
huy hiệu quả các lợi thế, tiềm năng vai trò và tác dụng của rừng để góp phần tạo
việc làm, thu nhập cho người dân gắn với công tác quản lý và bảo vệ rừng.
Đồng thời, xem việc bảo vệ rừng
là bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, giảm thiểu tác động
tiêu cực do thiên tai, tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, góp
phần giữ vững quốc phòng, an ninh.
Gia Lai hiện nay có diện tích hơn 1.551.000ha, trong đó đất quy hoạch cho lâm nghiệp 723.156,38ha, chiếm 46,62% tổng diện tích. Chính vì vậy Đảng bộ tỉnh xác định việc quản lý, bảo vệ và phát triển lâm nghiệp thực sự trở thành một ngành kinh tế quan trọng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao.
Tỉnh cũng tập trung quản lý, bảo
vệ, phục hồi hiệu quả diện tích rừng tự nhiên hiện có; bảo đảm tái sinh rừng,
phát triển và nâng cao chất lượng hệ thống rừng phòng hộ và rừng đặc dụng; trồng
rừng gỗ lớn, khai thác, sử dụng hợp lý rừng sản xuất bảo đảm chức năng phòng hộ
của rừng, bảo đảm an ninh nguồn nước; phát triển bền vững du lịch sinh thái.
Ngoài ra, Gia Lai tập trung đẩy
mạnh việc giao rừng, cho thuê rừng (theo Luật Lâm nghiệp) cho các tổ chức, cá
nhân. Chú trọng phát triển rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu quả rừng trồng, lâm đặc sản,
phát triển dược liệu dưới tán rừng đáp ứng nhu cầu lâm sản trong nước và làm
nguyên liệu xuất khẩu. Nâng tỷ lệ che phủ rừng lên 47,75%, bình quân mỗi năm trồng
mới 8.000ha. Triển khai có hiệu quả Khu Lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo
đúng chủ trương của Chính phủ.
Cùng với đó, phối hợp trong việc
bảo vệ rừng, nhất là các khu rừng giáp ranh giữa các tỉnh: Gia Lai - Kon Tum;
Gia Lai - Phú Yên; Gia Lai - Đắk Lắk; tăng cường và nâng cao hiệu quả các chính
sách, cơ chế, chế tài trong quản lý, điều phối các vấn đề mang tính chất vùng,
liên vùng có ảnh hưởng đến môi trường (cả bắt buộc và tự nguyện) như điều tiết
nước, bảo vệ rừng, di dân tự do...
Phóng viên: Đồng chí có kiến
nghị gì và địa phương có giải pháp nào để biến Nghị quyết thành hiện thực sinh
động trong thời gian tới?
Đồng chí Hồ Văn Niên: Về kiến
nghị, Gia Lai nói riêng và các tỉnh Tây Nguyên nói chung mong muốn Bộ Chính trị
tiếp tục có cơ chế, chính sách đặc thù cho Gia Lai và vùng Tây Nguyên để phát
triển kinh tế-xã hội toàn diện, phát triển kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo,
bảo vệ và phát triển rừng đồng bộ, phát triển cửa khẩu.
Đồng thời, có chính sách phát
triển các lợi thế từ kinh tế rừng, như: dịch vụ bán tín chỉ carbon, cho thuê
môi trường rừng để trồng và phát triển dược liệu dưới tán rừng nhằm phát huy hiệu
quả gắn với lợi ích của người quản lý và trồng rừng, qua đó, nâng cao hiệu quả
thu hút đầu tư và rút ngắn khoảng cách với 5 vùng khác trên cả nước.
Ngoài ra, tập trung đẩy mạnh
liên kết vùng, liên kết chặt chẽ với những vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền
Trung, các vùng kinh tế lớn, năng động.
Hơn nữa, Gia Lai là trung tâm của
khu vực tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia; đề nghị Bộ Chính trị chỉ
đạo Chính phủ bố trí các nguồn lực để thực hiện sớm các dự án đã quy hoạch dự
kiến triển khai trước 2030 như cao tốc Quy Nhơn - Pleiku, cao tốc Bắc - Nam
phía Tây; đường sắt kết nối Tây Nguyên với Đông Nam Bộ.
Trân trọng cảm ơn đồng chí!
Không có nhận xét nào: